Con cò mổ trúng bóng mình vội bay

Mai Văn Phấn| 26/04/2018 08:39

Mây lặng thinh nước lặng thinh Con cò mổ trúng bóng mình vội bay. Tôi lấy câu “bát” trong bài “Trên mặt đầm”, một bài thơ chỉ có một cặp lục bát của tác giả Trần Xuân Trường làm tiêu đề bài viết này.

Bài thơ trên mang vóc dáng tinh thần thơ Trần Xuân Trường xuyên suốt hai tập thơ của anh đã công bố, “Trăng nghiêng” (Nxb Hội Nhà văn, 2013), “Ô cửa đựng mùa xuân” (Nxb Hội Nhà văn, 2016) và tập thơ “Tiếng mầm” Nxb Hội Nhà văn, 2017. Cả ba tập thơ đã mở ra bức tranh khổ lớn về làng quê miền biển Bắc Bộ, với những chuyển động chậm, bình lặng, đôi khi gần như yên lặng. Trong bài thơ “Trên mặt đầm”, tác giả đánh dấu như để cố định hai vị trí “mây” và “nước” trong không gian thơ bằng một từ “lặng thinh”. Thần vía của từ này, theo cảm nhận của tôi, đã đồng hành cùng tác giả trong suốt hành trình, từ bài thơ trình làng đến nay, và, đã làm nên một cõi thơ. Còn “con cò” trong đó, nó có thể nhận ra bóng mình không? Đó là câu hỏi thú vị tùy thuộc vào cảm nhận riêng của người đọc. 

Con cò mổ trúng bóng mình vội bay
Nhà thơ Trần Xuân Trường 
Khảo sát từ tập thơ “Trăng nghiêng”, giai đoạn mở đầu của Trần Xuân Trường, cho thấy, tác giả đến với thơ như men theo tiếng gọi từ vực sâu của định mệnh. Thơ ca khi ấy đã trở thành cứu cánh, giúp anh vượt qua sự nghiệt ngã của số phận. Quê nhà ơi nắng chiều buông/ Ta về rồi hỡi chim muông có về (Khi nắng chiều buông). Thơ Trần Xuân Trường giai đoạn này tựa bóng nắng nhỏ bé lọt qua tán cây rậm rạp rồi loang dần trên mặt đất. 

Nhớ chừng sáu năm trước đây, giữa miền quê yên ả đã xuất hiện những bài thơ lục bát đắm say ngơ ngẩn mang tên Trần Xuân Trường. Sau đấy thấy anh cũng thử sức bằng những thể thơ khác, nhưng lạ thay, cứ rời lục bát ra là thơ anh không còn hương sắc, thậm chí không phải thơ nữa. Thế mới biết thể thơ đặc biệt này có sức cuốn hút mạnh mẽ và mê dụ. 

Thơ lục bát Trần Xuân Trường không cách tân, cho đến giờ vẫn giữ giọng điệu đều đều quen thuộc từ những bài thơ đầu tay. Đọc thơ, bạn đọc biết anh thường quấn quýt với hương quê, trải nghiệm “thất tình lục dục” trong cái sân quê, nhìn xuống ao quê, ra bờ sông quê, rồi quay lại. Trần Xuân Trường cũng từng xa nhà, nhưng tâm trí anh như đã được buộc chặt vào chốn ấy, không thể rời xa. Và, có lẽ cả trong tưởng tượng, trong giấc mơ nữa,  anh cũng không thể rời xa quê nhà. Đêm nằm ôm giấc mơ quê/ Bóng hoa hắt xuống bờ đê chập chờn (Cho vừa tháng ba). Quê hương đối với Trần Xuân Trường thực sự là mạch nguồn, là cội rễ nuôi dưỡng nguồn cảm xúc sáng tạo. Quê hương trong thơ anh, tôi ví tựa rễ cây, loại rễ chùm mà nếu cắt trụi đi, cây tức thì héo úa, không thể tồn tại. 

So với những vùng đất khác ven châu thổ sông Hồng, thì thôn xóm nơi gia đình Trần Xuân Trường đang ở nằm khá xa trung tâm văn hóa nơi phố thị, nhưng nó lại gần với niềm tin tôn giáo từ những ngày tổ tiên anh về Kim Sơn (Ninh Bình) lập ấp. Ai đã từng đọc thơ Trần Xuân Trường chắc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp chân thực, mộc mạc nơi vùng đất này. Tháng tư gió cũng thật hiền/ Chuông chiều ai thả dọc triền sông Ân (Gửi về tháng tư), Con rô chen lẫn con chày/ Nằm ươn bên một góc ngày chợ hôm (Bỗng một ngày dưng)...

Thơ lục bát chân quê trong không gian văn hóa lúa nước, theo tôi, đã được viết nhiều và có phổ chung. Sự khác biệt giữa các tác giả có chăng ở thủ pháp xây dựng hình ảnh, sắc thái câu thơ và giọng điệu ngôn từ. Tác giả Trần Xuân Trường khi chạm vào những hình ảnh thôn dã quen thân như, cái ao làng, con bướm, con cáy, con chuồn chuồn, tiếng chuông, bến nước, bánh đa bánh đúc… đã gặp được Bùi Giáng, Nguyễn Bính, Nguyễn Duy, Đỗ Trọng Khơi, Đồng Đức Bốn trong đó. Nhưng Trần Xuân Trường vẫn có được nét tinh tế, quyến rũ riêng: Bên kia một góc ao làng/ Bóng con bướm trắng xa đàng ngẩn ngơ (Khoảng trời thu); Con cua con cáy bò ngang/ Suốt đời bới đất đào hang tìm bờ (Lúa ơi). Đôi khi, người đọc ngỡ như nghe thấy cả tiếng nói thầm, gọi thầm rất duyên trong những câu thơ của anh: Năm nay chưa thấy trên thuyền/ Giọng cô bán muối cười hiền như mơ (Gọi xanh), Ánh trăng dột xuống mái nhà/ Nghe như có tiếng đàn bà ngủ mơ (Ánh trăng). 

Xuyên suốt ba tập thơ, tạm coi như kết thúc một hành trình, nhưng Trần Xuân Trường không mở rộng thêm nhiều đề tài, mà luôn trung thành với lối viết đã được hình thành từ những ngày đầu. Tuy vậy trong tập thơ “Tiếng mầm”, anh đã biết đào sâu khai thác những vẻ đẹp dung dị, gần gũi mà người khác chưa viết. Tôi ấn tượng với hình ảnh tiếng ve có mùi “hăng hăng” của nắng hè trong bài “Chiều bằng lăng”; Hay: Cánh ong bay tới bay lui/ Mướp già rụng rốn nhớ mùi phấn hoa (Trong vòng tròn), Ta nằm nghe gió ru cây/ Nắng thu ngậm chiếc lá gầy đong đưa (Heo may). Đặc biệt tôi rất thích câu “bát” trong cặp lục bát này: Thả vào chiều một tiếng chuông/ Nắng rơi xuống mái từ đường leng keng (Ông Từ). Chữ “leng keng” của anh bất ngờ, có thể nói xuất thần. Đây là câu thơ phá cách hiếm hoi trong nhịp điệu quen thuộc của anh. 

Thơ Trần Xuân Trường gần đây có thay đổi, tinh tế và nhuần nhuyễn hơn trước. Nếu trong tập thơ đầu của anh, bạn đọc thường gặp những nét vẽ thô mộc, hình họa cân đối, giản dị, thì đến tập thơ “Tiếng mầm” nét vẽ đã biến hóa, thanh mảnh và cũng mờ ảo hơn để diễn tả sinh động bức tranh thơ mộng, gần gũi nơi thôn quê: Mới xuân chưa hết mưa phùn/ Tiếng con chẫu chuộc còn run dưới bèo/ Hạt sương vừa ướp trong veo/ Đậu trên mặt lá dây leo thài lài (Mùa thương), Bướm vàng đậu ngọn xuyến chi/ Tìm hương chẳng thấy bay đi khi nào (Chạnh lòng). Thế giới tâm linh cũng đã mở ra trong thơ anh, do vậy trong tập thơ thứ ba này, đôi khi bạn đọc được bước vào không gian sâu thẳm, huyền hoặc mà trước đây chưa từng xuất hiện. À ơi tiếng gió đêm qua/ Màu trăng đã ngấm tận da thịt mình (Khúc ru)... 

Điểm xuyết ba tập thơ, dễ nhận thấy, thi pháp của tác giả nói chung, đặc biệt cách tạo lập hình ảnh ít có đột biến, mặc dù văn hóa làng hiện đang thay đổi nhanh trong quá trình tiếp biến và hội nhập. Tuy vậy trong những bài thơ gần đây, thủ pháp xây dựng tâm trạng kết hợp với dồn nén cảm xúc của anh đã thay đổi đáng kể, nhuần nhuyễn và hấp dẫn hơn trước, tạo được ấn tượng mạnh cho người đọc. Nếu trong tập thơ “Trăng nghiêng”, tác giả có cách viết chủ yếu dựa vào bản năng, đôi lúc gần như tự động, như Chợ quê là cả tấm lòng người quê (Chợ quê), hay Ngủ đi nào hỡi giấc mơ/ Ban mai lấp ló bên bờ dậu thưa (Lời đinh ninh); thì đến tập thơ “Ô cửa đựng mùa xuân”, người viết đã thể hiện rõ vị thế của chủ thể sáng tạo, lựa chọn phương thức biểu đạt phù hợp: Bên kia mảnh chợ quê nghèo/ Người về nắng cũng men theo lối mòn (Tiếng chim gọi mùa). Trong tập thơ “Tiếng mầm” gần đây nhất, bạn đọc dễ nhận thấy tác giả đã có kinh nghiệm và bản lĩnh hơn trong các thủ pháp mình chọn lựa. Đoạn thơ sau trong bài “Kìa” cho thấy, tác giả đã có được tâm và thuật vững vàng, tự tin, làm chủ được cảm xúc trước những giá trị biểu kiến đa tầng, phức hợp: Dịu dàng thế tháng ba ơi/ Nằm chơi với cỏ thả giời lên cao/ Tự nhiên gió cởi hoàng bào/ Thịt da tưới mát ngọt ngào cỏ xanh.

Xin nêu lại câu hỏi cụ thể hơn từ đầu bài viết này, liệu “con cò” trong bài thơ “Trên mặt đầm” có mổ trúng bóng mình? Xin thưa, có! Nó đã nhiều lần vụt bay để tạo nên một giọng thơ chân quê hiện đại, bàng hoàng, ngơ ngẩn với dáng vẻ bịn rịn và có phần dớ dẩn rất thi sĩ của Trần Xuân Trường. Tuy vậy, điểm lại ba tập thơ cho thấy, tác giả chưa thật đều tay, một số bài thơ còn ít hương sắc, nhạt nhòa ý tưởng và cảm xúc, điều ấy chủ yếu tập trung trong tập thơ “Trăng nghiêng”. Chắc bạn đọc dễ nhận thấy một số câu thơ của Trần Xuân Trường mang bóng dáng Nguyễn Bính, như: Để con bướm trắng ngô nghê/ Bay qua vườn vướng bùa mê cải ngồng (Chờ); Hoặc gần với thơ Đồng Đức Bốn, như: Thuyền không câu hát chòng chành/ Sông Cầu trăng hắt chìm anh giữa dòng (Chìm anh giữa dòng)… 

Những thành công của Trần Xuân Trường trong ba tập thơ thật đáng trân trọng, góp phần tôn vinh vẻ đẹp làng quê hiện đại, đồng thời đóng góp xứng đáng vào kho báu lục bát nước nhà. Trong số những người bạn viết quen biết có hoàn cảnh đặc biệt, trước tiên tôi rất nể phục tài năng và nghị lực của nhà thơ Đỗ Trọng Khơi. Ông bị bại liệt từ nhỏ, tự học, tự trau dồi kiến thức và đã đi được rất xa bằng đôi chân tưởng tượng của mình. Đỗ Trọng Khơi là gương mặt độc sáng trong làng thơ Việt Nam đương đại. Tác giả Trần Xuân Trường cũng có hoàn cảnh tương tự. Anh phải gánh chịu sự khắc nghiệt của định mệnh khi mới ngoài hai mươi tuổi, lúc còn trong quân ngũ, một tai nạn bất ngờ đã cướp đi đôi chân của anh. Từ đó Trường đi lại nhờ chiếc xe lăn, và, mọi việc trong gia đình đều trông cậy vào người vợ đảm, một cô giáo trường làng nết na hết mực yêu thương chăm sóc chồng con. Rồi số phận đã đưa anh đến với thơ ca, cho anh thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn, được dâng hiến. Thông qua internet, Trần Xuân Trường đã kết nối với bạn bè xa gần, trong đó có nhà thơ Đỗ Trọng Khơi – một tấm gương về nghị lực sáng tạo, nguồn động viên to lớn đối với anh. 

Trần Xuân Trường đang phải vượt qua chính mình để khẳng định chắc chắn một phong cách thơ. Phải chăng, đó chính là thách thức lớn nhất với anh trong chặng đường sáng tạo phía trước. Theo cảm nhận riêng tôi, nếu anh không mở rộng thêm không gian cho sáng tạo, ít trải nghiệm, cũng như nếu không tích lũy kiến thức phong phú và có hệ thống hơn, thì chính những thành công vừa qua sẽ làm con đường phía trước của anh hẹp lại, ngày thêm gập ghềnh. Tôi yêu thích thơ Trần Xuân Trường, cũng như tin vào nghị lực và sự nhiệt thành của anh. Xin lấy câu thơ dung dị của Trường trong bài “Lúa ơi” để thay cho lời chúc tốt lành, cũng là niềm mong mỏi của nhiều bạn đọc, trong đó có tôi muốn gửi gắm đến anh: Tiếng gà thoát khỏi đáy nơm/ Bát cơm vụ gặt mẹ đơm bỗng đầy. 
(0) Bình luận
  • Chiến sỹ Điện Biên
    Tạp chí Người Hà Nội trân trọng giới thiệu tới quý độc giả bài thơ Chiến sỹ Điện Biên của tác giả Vũ Lan Phương.
  • Mùa xuân Điện Biên
    Tạp chí Người Hà Nội trân trọng giới thiệu tới quý độc giả bài thơ Mùa xuân Điện Biên của tác giả Nguyễn Địch Long.
  • Trước tượng đài chiến sĩ Điện Biên
    Tạp chí Người Hà Nội trân trọng giới thiệu tới quý độc giả bài thơ Trước tượng đài chiến sĩ Điện Biên của tác giả Lương Sơn.
  • Âm vang Điện Biên
    Tạp chí Người Hà Nội trân trọng giới thiệu tới quý độc giả bài thơ Âm vang Điện Biên của tác giả Vũ Nhang.
  • Chiếc xe thồ Điện Biên
    Tạp chí Người Hà Nội trân trọng giới thiệu tới quý độc giả bài thơ Chiếc xe thồ Điện Biên của tác giả Nguyễn Đình Quý.
  • Lớn lên từ Điện Biên
    Tạp chí Người Hà Nội trân trọng giới thiệu tới quý độc giả bài thơ Lớn lên từ Điện Biên của tác giả Nguyễn Quốc Lập.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Con cò mổ trúng bóng mình vội bay
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO