Công trình kể biết mấy mươi...

PGS.TS Vũ Nho| 25/06/2021 14:20

Nếu phải kể tên nhà phê bình nghiên cứu say mê với tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam, chúng tôi sẽ không phải băn khoăn nói ngay lập tức: Đó là nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng (nguyên Phó chủ nhiệm Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội). Vừa mới năm 2019, tác giả  trình làng cuốn Thi pháp tiểu thuyết hiện đại (Nxb Thanh niên), hơn 400 trang in (khổ 16 x 24), đã giành tặng thưởng (Hạng B) của Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương. Năm nay lại có cuốn sách mới Thi pháp truyện ngắn hiện đại khá công phu với 342 trang in. 
Công trình kể biết mấy mươi...
(Về Thi pháp truyện ngắn hiện đại, tiểu luận - phê bình của Bùi Việt Thắng, Nhà xuất bản Thanh Niên, 2021)
Bùi Việt Thắng là người chuyên tâm, dành nhiều năm viết nghiên cứu phê bình tiểu thuyết và truyện ngắn dân tộc thời hiện đại. Riêng về truyện ngắn, nhà nghiên cứu đã công bố Bình luận truyện  ngắn (phê bình - tiểu luận,1999), Truyện ngắn - Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại (chuyên khảo, 2000; tái bản 2007, 2011), Truyện ngắn Việt Nam hiện đại (Giáo trình sau đại học, cùng với Đinh Trí Dũng, 2018; tái bản 2018). Bây giờ là cuốn sách đáng đọc chúng tôi đang nói tới.
Thi pháp truyện ngắn hiện đại được chia làm 2 phần. Phần thứ nhất có nhan đề Truyện ngắn Việt Nam hiện đại - Cảnh quan và tác giả. Trong phần này có hai tiểu luận về truyện ngắn Việt Nam 1945 - 1975 và truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Kèm theo đó là nghiên cứu 10 nhà văn thành danh với truyện ngắn gồm: Kim Lân, Anh Đức, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Đỗ Chu, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Sáng, Sơn Nam.
Phần thứ hai có nhan đề Những sắc cầu vồng truyện ngắn. Phần này có một tiểu luận Về diện mạo và khuynh hướng phong cách truyện ngắn thế hệ 5x và 6x. Kèm theo là bình luận 10 cây bút truyện ngắn nổi bật của thế hệ này gồm: Nguyễn Quang Thiều, Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Thế Hùng, Võ Thị Xuân Hà, Như Bình, Vũ Minh Nguyệt, Dạ Ngân, Nguyễn Văn Thọ, Văn Chinh, Nguyễn Trường.
Những vấn đề về đặc trưng thể loại, về các kiểu loại truyện ngắn đã được nhà nghiên cứu bàn luận kĩ lưỡng trong các công trình trước. Vì vậy trong sách này, tác giả chỉ trình bày một cách khái quát về dòng chảy liên tục của truyện ngắn. Đáng chú ý nhất là tác giả phê phán quan niệm không chính xác về thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn không phải là bài tập văn chương, truyện ngắn cũng không phải là “dao găm súng lục” so với những “cỗ đại bác” tiểu thuyết. Nó là một loại thể riêng mà người viết có thể thành danh chỉ với truyện ngắn. Điều này lịch sử văn chương thế giới và Việt Nam đã chứng minh. Thậm chí viết truyện ngắn còn khó hơn cả truyện vừa và tiểu thuyết, cho nên có nhà văn nổi tiếng đã nói rằng ông không có thì giờ để viết ngắn!
Có thể thấy rằng giai đoạn 1945 - 1954 truyện ngắn vẫn là dòng chảy liên tục, nhưng nhà nghiên cứu đánh giá: “Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954, cũng giống như thơ ca, có cái nền rộng, có tính chất phong trào, ít tính chuyên nghiệp so với giai đoạn 1930 - 1945” (tr.11). Nó có đặc điểm là “vặn mình” đổi thay;  vỡ ra về khuôn khổ; không gian nghệ thuật được mở rộng. Thời kì 1954 - 1975, được nhà nghiên cứu ví von: “như một vườn hoa nhiều hương sắc được vun xới bởi những “người làm vườn” âm thầm và tài hoa như Vũ Bằng, Bình Nguyên Lộc, Vũ Hạnh, Võ Hồng,  Sơn Nam...” (tr.20). Không phân biệt các kiểu truyện ngắn, mà nhà nghiên cứu phân chia ba loại phong cách truyện ngắn thời kì này. Đó là phong cách truyện kí, phong cách trữ tình và phong cách truyền thống.
Giai đoạn sau năm 1975, tác giả chú ý đặc biệt đến dấu mốc 1986: “Văn chương Việt Nam từ sau 1986 được gọi là văn chương Đổi mới. Đặc điểm cơ bản của văn chương Đổi mới là tinh thần dân chủ, phát huy cảm hứng tôn trọng sự thật, đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn và khai thác triệt để công năng của các thể loại” (tr. 26). Truyện ngắn được xem xét trên các đặc điểm đó, cũng như phong cách truyện ngắn thời kì này được phân chia và định danh khác với thời kì trước. Đó là: “Dòng phong cách trữ tình, dòng phong cách hiện thực, dòng phong cách kì ảo” (tr.31). Mỗi dòng phong cách gắn với những tên tuổi nổi bật. 
Phong cách trữ tình mà khởi thủy là Thạch Lam gồm các tác giả: Anh Đức, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Bản, Hồng Nhu, Lý Biên Cương, Đỗ Chu, Nguyễn Quang Thiều, Thùy Linh, Trần Thùy Mai, Đỗ Bích Thúy…
Phong cách hiện thực gồm các tác giả: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,  Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Trung Trung Đỉnh, Phạm Hoa, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Quang Lập, Tạ Duy Anh, Sương Nguyệt Minh, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư…
Phong cách kì ảo có vẻ khiêm tốn hơn, gồm các tác giả: Võ Thị Hảo, Lưu Sơn Minh, Trung Trung Đỉnh, Sương Nguyệt Minh. Các tác giả được kể thêm là Phạm Trung Khâu, Tô Hải Vân.
Có thể thấy việc phân chia này chỉ mang ý nghĩa tương đối. Ngay chính người soạn sách đã xếp Trung Trung Đỉnh, Sương Nguyệt Minh vào cả hai dòng phong cách và Nguyễn Huy Thiệp cũng được xếp vào hai dòng phong cách vì: “Đây là một nhà văn tài năng, phức tạp, đa phong cách, bút pháp vô cùng biến ảo” (tr.33). Tác giả cũng điểm qua về kĩ thuật truyện ngắn với cấu tứ, cách kết thúc, tình huống, chi tiết, và ngôn từ gồm lời văn, giọng điệu và nhịp điệu. Những điều này sẽ được vận dụng khi đánh giá tác giả truyện ngắn cụ thể.
Phần công phu và lý thú nhất là 10 tiểu luận về mười cây truyện ngắn nổi bật của văn học Việt Nam. Cứ bình quân mỗi tác giả trung bình 6 tập truyện ngắn, thì nhà nghiên cứu đã phải đọc ít nhất 60 tập. Hơn thế, về mỗi tác giả, ông lại có một kiểu viết khác nhau. Một số tác giả được chia ra các tiểu mục nhỏ có nhan đề như:  Anh Đức, Nguyễn Kiên, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Sáng, Sơn Nam. Ba tác giả khác thì viết liền mạch. Nhà nghiên cứu cố gắng chỉ ra những nét riêng  nổi bật của mỗi tác giả được đề cập. Ví dụ với nhà văn Nguyễn Quang Sáng, người viết chỉ ra và phân tích kĩ sự độc đáo của Nguyễn Quang Sáng thể hiện trong bố cục, tình huống, chi tiết và chất Nam Bộ. Còn với Nguyễn Huy Thiệp thì người viết lại tập trung khắc họa cấu tứ truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thể hiện ở con người cô đơn, con người ảo tưởng, con người phạm tội bị trừng phạt, con người của đất đai.   
Rất nhiều điều lí thú bạn đọc có thể tìm thấy trong 10 tiểu luận về 10 tác giả truyện ngắn nổi tiếng này. Hầu hết họ có tác phẩm được đưa vào chương trình ngữ văn trong nhà trường (phổ thông và đại học). Vì thế các thầy cô giáo và các em học sinh, sinh viên có thể tìm thấy ở đây những gợi ý và nhận xét bổ ích. Cũng có thể thấy những tranh luận thẳng thắn, ví dụ với Vương Trí Nhàn về tác giả Nguyễn Thành Long (tr.119). Có thể tìm thấy những so sánh chính xác và thuyết phục về hai nhà văn kể chuyện xưng tôi (Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, tr.201 - 202).
Phần thứ hai của cuốn sách dung lượng chỉ chiếm 1 phần 3 nhưng nội dung rất đáng quan tâm, khi nhà nghiên cứu quan tâm đến thế hệ tác giả truyện ngắn nối dài đến tận ngày nay. Một tiểu luận ngắn cho thấy bức tranh toàn cảnh của thế hệ tác giả truyện ngắn 5x và 6x những cây bút sinh những năm 1950: 1950 - 1959, và sinh những năm 1960 (1960  - 1969). 
Bùi Việt Thắng cho rằng những tác giả được đề cập trong phần này là người  có công “kê cao” thể loại truyện ngắn. Nếu so sánh khuynh hướng phong cách với các tác giả đã định hình và thành danh ở giai đoạn trước thì thấy rõ sự khác biệt. Các tác giả này phân chia thành 3 khuynh hướng phong cách: hiện thực tâm lí, trữ tình và triết lí - suy tưởng. Rõ ràng đây là sự tiếp nối 3 dòng phong cách (tr.31) nhưng có sự phát triển. Hiện thực bây giờ kèm với tâm lí, kì ảo bây giờ được thay bằng triết lí - suy tưởng. Riêng trữ tình vẫn tiếp tục phát triển như một dòng phong cách riêng. Những tác giả này đang hứa hẹn trước một chân trời rộng mở.
Mười tác giả được viết khá công phu và kĩ lưỡng. Ở đây, hình như giọng điệu có phần phóng túng, tung tẩy hơn. Bùi Việt Thắng kể nhiều về những kỉ niệm của mình với các tác giả. Thêm một điều lí thú là, cái “tôi” của người viết phê bình bộc lộ rất rõ nét. Phải chăng, nhà nghiên cứu sau nhiều công trình về truyện ngắn đã có thể rất tự tin? Chỉ biết rằng khi viết về cây bút truyện ngắn Dạ Ngân, trong khoảng 5 trang in, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã 16 lần xưng “tôi”. Và cái “tôi” ấy thể hiện rõ nét khi nhà nghiên cứu thân ái chê Văn Chinh hay “trộ” (hù, dọa)  người đọc (tr.325). Mặc dù “thích thú đặc biệt” với Nguyễn Văn Thọ, nhưng vẫn chỉ ra nhược điểm của tác giả này là hay “bao cấp” người đọc (tr.329).
Bạn đọc cũng sẽ thấy được “kĩ thuật” viết của tác giả Bùi Việt Thắng biến ảo. Khi thì khai thác khoảnh khắc, tình huống (moment, situation), khi thì chú ý đến cấu tứ, khi khác lại bàn về phong cách, khi khác nữa thì nhấn mạnh giọng điệu, khi khác lại so sánh hai kiểu viết gần nhau, hoặc đối lập nhau để làm rõ tác giả được bàn đến. Điều ngạc nhiên là nhà nghiên cứu đọc “thiên kinh vạn quyển” nhưng không đọc ào ào, mà ông có nhã thú đọc chậm, đọc rất chậm. Không ít lần tác giả dẫn ra những câu văn hay và đẹp của những tác giả  truyện ngắn được bàn tới (Phạm Duy Nghĩa, Võ Thị Xuân Hà, Như Bình), minh chứng cho điều này. Đúng như ông và các nhà phê bình đồng thuận đánh giá: một truyện ngắn hay không chỉ là cốt truyện, cấu tứ, chi tiết, tư tưởng, mà còn hay cả ở lời văn nữa!
Công trình kể biết mấy mươi...
Hòa bình cho nhân loại. Tranh của Lê Huy Quang
Có thể nói rằng với các tác phẩm: Bình luận truyện ngắn, Truyện ngắn - Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể, Truyện ngắn Việt Nam hiện đại và bây giờ là Thi pháp truyện ngắn hiện đại, cùng với các chuyên luận về tiểu thuyết, không nghi ngờ gì nữa khi khẳng định Bùi Việt Thắng là một trong những chuyên gia hàng đầu về văn xuôi Việt Nam hiện đại.
(0) Bình luận
  • Hố băng
    Tôi nghe kể có một làng miền Tây hơn năm trăm năm không có lấy một đền chùa, nhà thờ, miếu mạo nào, mà cũng hơn năm trăm năm không có giáo sư, tiến sĩ, kỹ sư, hay cử nhân đại học. Trái ngược hoàn toàn và cái làng sát bên hông nó, có một cái đình to vật vã với sắc phong mỗi mùa nắng ráo, ông từ phải đem ra phơi tràn cả lối đi, với các gia phả chi chít những tri huyện, thượng thư, thái úy.
  • Dưới bóng cây mận già
    Năm ấy, một ngày đầu mùa hè, con ngựa bạch xuất hiện ở cổng nhà tôi với hai cái sọt to tướng đầy măng rừng trên lưng. Chở nặng, và bị cột vào gốc cây, con ngựa đứng im, đầu hơi cúi xuống trầm tư. Cái đuôi dài xác xơ thi thoảng vẩy lên đuổi một con ruồi vô ý.
  • Hạnh phúc của mẹ
    Gần bảy giờ, trời đã nhá nhem tôi mới về tới phòng trọ. Tôi giật mình vì có bóng người đang ngồi thu lu trước cửa. Hóa ra đó là mẹ… Tôi vội hỏi vì sao mẹ lên chơi mà không nói trước để tôi ra bến xe đón. Mẹ nói lên đột xuất nên không muốn gọi, sợ tôi bận, mẹ bắt xe ôm về phòng trọ của tôi cũng được. Lúc này tôi mới để ý dưới chân mẹ là một cái túi du lịch to, mẹ đã mang theo khá nhiều quần áo, chắc không định ở chơi vài ngày rồi về. Lòng dạ tôi bỗng bồn chồn.
  • Câu chuyện một giờ
    Kate Chopin (1850 - 1904) là nhà văn người Mỹ và là một trong những tác giả nữ quyền đầu tiên của thế kỷ 20. Vốn là một người nội trợ, nhưng cuộc đời bà đã thay đổi kể từ sau cái chết yểu của người chồng. Bà trở thành nhà văn viết truyện ngắn đầy tài năng và giàu năng lượng. Kate Chopin được biết đến nhiều nhất qua tiểu thuyết “The Awakening” (1899) - câu chuyện tiên tri đầy ám ảnh về một người phụ nữ.
  • Hoa thủy tiên của mẹ
    Đã nhiều năm trôi qua chúng tôi không lên bờ đón Tết. Mẹ nói đời mẹ gửi cả vào sông. Sống ở trên sông. Mai này mẹ nằm lại đáy sông, nhờ sông giữ giùm phần linh hồn người thiên cổ. Mẹ không muốn xa dòng sông nửa bước. Tôi lớn lên trên chiếc ghe chòng chành sóng nước, qua bao mùa gió trăng. Mùa xuân này tôi ra lái thuyền ngồi chải tóc.
  • Ký ức xương rồng
    (Làm sao em nhớ Mưa ngoài song bay… T.C.S)
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Công trình kể biết mấy mươi...
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO