Thạc sĩ Tâm lý (ĐHKHXH&NV Hà Nội) Trần Thà nh Nam cho biết: những biểu hiện sốc™ ban đầu và thông thường nhất của trẻ mới bước và o lớp 1 như: Trẻ hay khóc, hay là m nũng khi cha mẹ đưa đi học, nôn ói và biếng ăn khi cho trẻ ăn.
Trong thời gian đầu, có nhiửu trẻ sẽ bị sút cân. Trẻ còn còn rất ám ảnh việc phải xa bố mẹ, và các dấu hiệu như tiểu dầm, nhịn tiểu, nhịn ăn...
Có nhiửu em sẽ ăn vạ và quấy rối ở trong lớp học, không chịu nghe lời cô giáo để mọi người trong lớp ghét. Như vậy, bé nghĩ mình sẽ được tự do và được trở vử nhà với bố mẹ. Ở mức độ sốc cao hơn, trẻ có thể giả vử đau bụng và dần dần nó trở thà nh thói quen, và trở thà nh bệnh lí rất khó chữa.
Lý giải cho hiện tượng nà y, Tiến sĩ Dương Thị Diệu Hoa - Trưởng bộ môn Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm, khoa Tâm lý - giáo dục, ĐH Sư phạm Hà Nội cho rằng trẻ sẽ gặp khó khăn khi chuyển từ tuổi mẫu giáo sang tuổi tiểu học, vì các hoạt động của trẻ sẽ chuyển: từ vui chơi là chủ đạo sang hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo. Có thể nói, từ lúc trẻ chưa biết đọc, viết đến biết đọc, viết là một bước ngoặt rất lớn đối với một đứa trẻ.
Với các bé, là m quen với những nội quy, thà nh tích học tập, là một... cú sốc lớn
Ba "chướng ngại vật" chính của bé
Một là : Trẻ phải chấp hà nh nội quy, quy chế của nhà trường. Khi ngồi trong lớp, trẻ phải tuân thủ khoảng thời gian nhất định, 30 “ 35 phút mới được ra chơi, phải là m theo những lời cô dạy...
Khó khăn thứ hai: Trẻ phải thiết lập quan hệ với thầy cô giáo, bạn bè, anh chị lớp trên. Ở mẫu giáo, việc nà y cũng có, nhưng quan hệ mẫu giáo là quan hệ giữa cô và mẹ, mẹ và cháu là các con thân thiết. Các con khóc, cô có thể ngồi ôm cháu và o lòng, hát cho cháu nghe, các bạn khác tự chơi được, nhưng ở trường tiểu học thì phải ngồi trật tự hơn, tự giác hơn.
Ở cấp tiểu học, khoảng cách tâm lý giữa cô và trò cũng lớn hơn. Thầy cô dù yêu thương trẻ đến mấy cũng phải đánh giá, nhận xét và cho điểm các em. Khi đó, trẻ thường sợ cô giáo hơn. Hai khó khăn trên có thể xuất hiện ngay từ đầu khi trẻ bước và o lớp 1.
Khó khăn thứ ba thường chỉ xuất hiện và o giữa học kử³ một. Đó chính việc tiếp thu nội dung các môn học. Trẻ phải học nhiửu môn tất nhiên sẽ khó hơn khó, buộc trẻ phải tiếp thu, lĩnh hội.
Nhiửu khi năng lực tiếp thu của trẻ hạn chế hoặc không có gốc để tiếp thu khiến trẻ chán học. Trong khi, chương trình lớp 1 của chúng ta nặng hơn trước rất nhiửu cũng là một khó khăn lớn với cả thầy cô, gia đình và trẻ.
Cần có những biện pháp gần gũi, thiết thực, giúp trẻ là m quen với môi trường học đường
Vử phía gia đình, khoảng thời gian trước 6 tuổi, giáo dục của gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hình thà nh nhân cách của trẻ. Có một điửu đáng lưu ý là hiện nay, nhiửu bậc phụ huynh do quá kử³ vọng và o con nên cho trẻ đi học trước học đọc và viết từ lớp mẫu giáo.
Nhiửu trường học, nhất là các trường tư thục dù nhiửu giáo viên không muốn dạy đọc và viết cho trẻ nhưng khó khăn đến khi gia đình của trẻ cương quyết: nếu cô giáo không dạy thì tôi cho cháu đi học ở chỗ khác. Điửu nà y vô tình đã tạo áp lực cho các cô giáo mẫu giáo và trẻ nhử. Điửu gia đình cần là m là chuẩn bị tâm lý cho trẻ thích thú tới trường.
Thích trước hết là ở vẻ bử ngoà i của việc học: từ việc có cặp sách, đồng phục, góc học tập, tới được anh chị đón tiếp đầu năm, được đưa đi đón vử các em hãnh diện lắm.
Cô giáo nên... cười nhiửu hơn
Theo TS Diệu Hoa, các cô giáo lớp 1 ngoà i việc dạy kiến thức cho trẻ thì vừa phải niửm nở, ân cần đón các cháu. Để rút ngắn khoảng cách cô với trẻ thì cô phải cười nhiửu hơn, gật đầu nhiửu hơn. Rồi nữa là khuyến khích, động viên trẻ, khen trẻ nhiửu.
Và cũng vì ở giai đoạn nà y trẻ cực kử³ tin tưởng và o thầy cô, lấy thầy cô là m mẫu người lý tưởng do đó, những nhận xét của giáo viên nên theo chiửu hướng tích cực. Tuyệt đối không quát nạt hay dọa dẫm trẻ, bởi đó có thể là một bước ngoặt nguy hiểm vử tâm sinh lý của trẻ sau nà y.