(NHN) Con đê dà i uốn lượn từ Phùng đi Bá Giang, đoạn qua quán Bét (Hạ Mỗ) dân quen gọi là Cửa Hà m Rồng thuộc huyện Đan Phượng.
Nơi đây, nước sông Hồng rẽ một nhánh chảy thà nh sông Nhuệ (còn gọi là Nhọn). Thời tiửn Lý, Hạ Mỗ có thà nh à” Diên bảo vệ nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế. Thế kỷ XII Thái úy phụ chính Tô Hiến Thà nh đã sinh ra từ mảnh đất cửa sông nà y. Câu đối cổ ghi ở cổng xóm lẻ:
- Thiên tải do truyửn Tô tướng hạng
- Nhất điửu biệt chiếm Nhuệ giang biên
Theo hướng nam, sông Nhuệ đổ vử xuôi, chia tổng Gối là m đôi, trên dòng sông thuở ấy thuyửn bè tấp nập. Cuộc tụ nghĩa của quân sĩ Hai Bà Trưng, thuyửn chiến dưới sông, voi chiến trên bử hùng dũng. Dân gian mô phửng thà nh hội hát chèo tà u (chèo thuyửn) đặc sắc. Dòng sông chảy tiếp xuống đầm Tây Tựu (Từ Liêm) mở ra hội bơi trải là ng Đăm. Câu ca rằng:
Bơi Đăm, rước Giá, hội Thà y
Vui thì vui vậy, chẳng tà y giã La
Như dải lụa mà u, sông Nhuệ lượn vòng qua Cầu Diễn, lối và o ô cửa phía tây kinh thà nh Thăng Long. Phù sa sông Nhuệ tưới mát vùng Đại Mỗ, nơi đây xuất hiện tể tướng thám hoa Nguyễn Quý Đức văn võ song tồn. Dòng sông qua là ng Vạn Phúc, tơ lụa giăng hà ng lấp lánh, tiếng thoi đưa rộn rã bao đời. Và dòng sông thơ mộng, văn hiến ấy bồi đắp cho là ng quê Đa Sử¹, một tất yếu của lịch sử địa linh sinh nhân kiệt. Quê hương rất đỗi tự hà o có vị nhân thần Hồng Đôn Hòa đã sinh ra bên dòng sông Nhuệ văn hiến nà y. Tà i năng, đức độ của Ngà i còn vang vọng đến hôm nay.
Tạo hóa sinh ra dòng nước thường chảy xuôi. Nhưng giá trị nhân văn của con người thì ảnh hưởng cả xuôi, ngược. Vai trò của dòng sông trong lịch sử, nhất là đương thời của Danh y Hồng Đôn Hòa, thì nó là phương tiện chuyển tải những nguồn thuốc quý đi khắp muôn phương. Theo đó là tiếng thơm vử tà i cao, y đức của ngà i cũng lan tửa, đến những là ng quê, xóm vắng xa gần.
Ta lại ngược dòng Nhuệ thủy, để thấy sự ảnh hưởng y thuật, y đức của Danh y. Gần 100 năm sau ngà y mất của Hồng Đôn Hòa, ở là ng Trúng Đích, xã Hạ Mỗ có một vị danh y, danh sĩ có tên là Đà o Hồng Thực. Sự nghiệp và con người ông, tiếp nối Danh y Hồng Đôn Hòa. Cụ Đà o phục vụ nhà Lê Chính Hòa (1697-1704). Cụ học giửi thi khoa nà o, đỗ khoa ấy, lại có tà i bắt trúng mạch chữa cho nhà vua khửi bệnh. Năm 28 tuổi cụ đỗ tiến sĩ trúng cách, hiện có tên trong bia Văn Miếu-Quốc Tử Giám (Hà Nội). Nhân dân tự hà o với công trạng của cụ đặt tên là ng là Trúng Đích.
Trên 40 năm là m việc tại triửu đình, cụ là người tà i trí, uyên thâm văn học, thông tuệ y khoa. Nhà vua giao biên soạn sách vử y. Khi được vử trí sĩ, cụ lấy ngôi chùa Báo à‚n là nơi dạy chữ, dạy nghử là m thuốc và chữa bệnh cho nhân dân quanh vùng. Nhiửu người thụ nghiệp cụ cũng thà nh danh. Ngôi chùa Báo à‚n xưa hãy còn lưu bút tích của cụ ở bà i minh khắc trên khánh đá. Ngôi mộ của cụ trong vườn chùa vẫn nghi ngút khói hương. Chắc hẳn lúc đương nhiệm, đương thời, Tiến sĩ, Danh y Đà o Hồng Thực có sự ảnh hưởng danh tiếng, y thuật, y đức của đại Danh y Hồng Đôn Hòa.
Bên tả ngạn cùng đầu nguồn sông Nhuệ còn có là ng Mỗ Thượng, nay là xã Thượng Mỗ. Ở đây cũng nổi danh một dòng dõi nho y họ Hồng Đăng. Thế kỷ XVII có cụ Hồng Phúc Định được bổ nhiệm chức ngự y triửu Lê. Đến nay đã chín đời hương lửa, gia tộc họ Hồng nối tiếp nhau giữ nghiệp, truyửn nghử là m thuốc cứu dân.
Thời thuộc Pháp, cụ Hồng Đăng Xuân mở hiệu thuốc đông y ở chợ huyện, phố Phùng. Thuốc gia truyửn của cụ chữa trị được nhiửu người bệnh. Cụ còn đặt lời thơ cho dòng hát nói ca trù của giáo phường Thượng Mỗ một thời. Ngà y nay con cháu của cụ là lương y Hồng Đăng Bân, Hồng Đăng Huy có cửa hiệu tại Thị trấn Phùng và Láng Hạ (Hà Nội). Lương y Hồng Đăng Bân là hội viên của Hội Đông y thà nh phố. Rồi ở Đại Phùng, Tân Hội, Thọ An... cũng có những lương y tận tụy với nghử, vận dụng những bà i thuốc dân gian trong sách Hoạt nhân tốt yếucủa Hồng Đôn Hòa. Đặc biệt là phương pháp dườ¡ng sinh theo phép thở khí công, thuyết thanh tâm tiết dục... đến ngà y nay vẫn còn nguyên giá trị phương thuốc trị bệnh cứu người của Danh y Hồng Đôn Hòa được hồn tán chế sẵn, rất tiện lợi cho việc phổ biến và điửu trị bệnh.
Là ng tôi cũng ở khu vực đầu nguồn sông Đáy, cách cửa sông Nhuệ không xa. Đầu thế kỷ XX, ông nội tôi là hương sư dạy chữ, trồng người. Sự nghiệp nho học và y học thường gắn bó với nhau mật thiết. à”ng nội tôi truyửn rằng, thủa ấy có ông đồ Đan người Đa Sử¹ thường mang thuốc hồn tán lên bán ở quê tôi, được nhân dân trong vùng mến mộ. Cụ đồ Đan thường ở lại hà ng tuần để bán thuốc và hà n huyên thế sự nho y với ông nội tôi. Trong câu chuyện tâm giao các cụ thường nhắc đến danh tiếng lưu truyửn vử y thuật, y đức của tiên sinh Hồng Đôn Hòa.
Là ng tôi ở bên là ng La Thạch nay là xã Phương Đình, Đan Phượng. Là ng La Thạch có một nhà thử dòng họ Nguyễn và ngôi miếu của là ng tôn thử danh tướng Nguyễn Đức Dũng. Trong miếu cổ có bức hồnh phi ghi bốn chữ: Trần Triửu Trung úy. Nhân dân ở đây ngườ¡ng mộ phối thử cùng với tam vị Phúc thần của là ng, coi đức Cụ là Thà nh hồng đã có công lao to lớn với dân là ng La Thạch. Thần thích ngồi miếu ghi rõ cụ Nguyễn Đức Dũng là người ở Đa Sử¹, qua một cơn binh lửa của triửu Trần đã lánh nạn lên đây, tránh sự truy bức của nhà Lê. Vốn là người thao lược, lại có lòng thương dân, cụ lãnh đạo dân là ng khai phá bãi sậy, cà y cấy bãi bồi, đắp đê ngăn nước, giữ yên xóm là ng thốt cảnh trộm cướp hồnh hà nh. Dòng họ Nguyễn sinh sôi, phát triển, cảnh đồng quê thôn dã ngà y một phồn thịnh đông vui. Khi cụ mất nhân dân tôn thử kính cẩn. Câu đối cổ có ghi:
- Trần kỷ hà niên tướng lược lẫm truyửn Đa Sử¹ cổ
- La châu thắng địa thần uy hiển trứ phúc từ Đông.
Tạm dịch:
- Kỷ nguyên nhà Trần năm xưa, người là vị tướng mưu lược, chuyện vẫn còn truyửn ở Đa Sử¹.
- Nơi đất là nh La Thạch ngà y nay, người là bậc thần uy linh ứng, vốn ở ngôi miếu phía Đông.
Từ dòng sông văn hiến, sản sinh ra con người tà i hoa Hiửn tà i là nguyên khí Quốc gia. Sự nghiệp lớn lao của các vị là m rạng rỡ quê cha, đất mẹ. Như những hạt phù sa lấp lánh