(NHN) Nhiửu năm qua Hội KHLS VN đã có tiếng nói quan trọng xác định giá trị LS -VH để lập hồ sơ công nhận Hoà ng thà nh Thăng Long là Di tích đặc biệt cấp quốc gia và phát triển thà nh hồ sơ đử nghị UNESCO công nhận DSVH thế giới.
Người đứng mũi chịu sà o đưa ra những kiến nghị đầy tinh thần trách nhiệm, khoa học và đau đáu nỗi lòng với những di sản văn hóa Thăng Long “ Hà Nội là GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử VN (các khóa II, III, IV và V từ năm 1990 đến nay).
* Cuốn quốc sử ở khu di tích Hoà ng thà nh “ Thà nh cổ
Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI được ghi dấu ấn bằng việc phát hiện hà ng lọat di tích lịch sử - văn hóa vử kinh thà nh Thăng Long cổ xưa. Đó là những di sản văn hoá vô giá mà bao nhiêu thế hệ tổ tiên đã sáng tạo nên và lòng đất nà y đã gìn giữ cho đến hôm nay, vì thế việc tiếp tục bảo tồn, phát huy rồi chuyển giao lại cho các thế hệ mai sau phải được thế hệ hôm nay thực hiện với một ý thức trách nhiệm cao nhất.
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê sinh ngà y 23 tháng 2 năm 1934 tại xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà , tỉnh Hà Tĩnh. à”ng là hậu duệ của Thượng thư, nhà ngoại giao Phan Huy àch, nhà bác học Phan Huy Chú, Thượng thư - nhà văn hóa Phan Huy Vịnh. Thân sinh Phan Huy Tùng (1878- ?) (đỗ Hội nguyên và Tam giáp đồng tiến sĩ khoa Quý Sửu - năm 1913), Lang trung Bộ Hình triửu Nguyễn. Mẹ ông là người dòng họ Cao Xuân già u truyửn thống khoa bảng với các danh nhân: Cao Xuân Dục, Cao Xuân Tiếu, Cao Xuân Huy.
Năm 1956, sau khi tốt nghiệp, ông được giữ lại là m trợ lý tập sự tại Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, dưới sự dẫn dắt của vị Giáo sư nổi tiếng Đà o Duy Anh. Chỉ hai năm sau, thầy giáo trẻ Phan Huy Lê đã được giao nhiệm vụ là m Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử Việt Nam Cổ - Trung đại và liên tục giữ trọng trách nà y hà ng chục năm liửn. Có thể nói cuộc đời của GS Phan Huy Lê gắn liửn với Hà Nội, không chỉ vì đây là nơi ông đã sống mà còn vì ông đã gửi gắm tình yêu và cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp nghiên cứu và bảo vệ di sản lịch sử - văn hóa Thăng Long “ Hà Nội.
Nghiên cứu dấu tích vùng đất Hà Nội - Hoà ng Thà nh Thăng Long trong tương quan với các kinh đô cổ, GS Phan Huy Lê đã nhận định: Việc phát hiện di chỉ 18 Hoà ng Diệu đã đủ chứng tử những giá trị vô giá của kinh thà nh Thăng Long từ nghìn năm trước còn lại trong lòng đất, đủ khiến ta thấy may mắn khi nhử sự bảo tồn của lòng đất mà ta, và các thế hệ con cháu, sẽ còn nhiửu cơ hội nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử. Giá trị của khu di tích Hoà ng thà nh Thăng Long (được phát lộ năm 2003) đã được các nhà khoa học trong nước cũng như các chuyên gia quốc tế, kể cả ông tổng giám đốc UNESCO đánh giá rất cao, hoà n toà n xứng đáng để được công nhận là di sản văn hóa nhân loại.
GS Phan Huy Lê
Mỗi cố đô có một hệ giá trị riêng mà chỉ mình nó có, việc so sánh Hoà ng thà nh Thăng Long với các cố đô Cổ Loa, Hoa Lư và Huế chỉ nhằm khẳng định thêm những giá trị cực kử³ quý hiếm của di chỉ Hoà ng Thà nh, cố đô Thăng Long 1000 năm văn hiến.
Theo GS Phan Huy Lê, nếu coi đường Hoà ng Diệu như gáy một cuốn quốc sử thì trục Thần đạo với các công trình kiến trúc nổi giống như trang bìa cứng bằng và ng còn khu 18 Hoà ng Diệu như những trang sách được mở ra với rất nhiửu thông tin chính xác, đặc biệt quan trọng mà chúng ta chưa đủ sức hiểu ngay hết giá trị của chúng.
Nhắc đến Hoà ng thà nh Thăng Long là nhắc đến tính liên tục của các lớp văn hóa Lý - Trần - Lê được giấu kử¹ dưới lòng đất, mà nếu không có cuộc khai quật bất ngử năm 2003 tại số 18 Hoà ng Diệu thì vẫn là bí mật, vẫn chỉ là những lời văn trong sử liệu, qua những bản đồ khá sơ lược. Đây là bộ sử bằng di vật của kinh thà nh Thăng Long, để từ đó ta hiểu được rất nhiửu vử kiến trúc, vử bản sắc văn hóa, vử sự kết hợp thiên nhiên (thích nghi và tận dụng), kết hợp triệt để giao thông đường thủy, xử lý không gian... Di tích 18 Hoà ng Diệu đã đủ chứng tử những giá trị vô giá của kinh thà nh Thăng Long từ nghìn năm trước còn lại trong lòng đất, nhử vị trí của Cấm Thà nh không thay đổi qua các triửu đại, vì thế dù là phế tích nhưng giá trị còn rất rõ, các chuyên gia quốc tế quý Hoà ng Thà nh Thăng Long bởi qua bử dà y cả ngà n năm mà còn bảo tồn được như vậy là rất hiếm.
Trong lịch sử thà nh Thăng Long, La thà nh (hay Đại La thà nh), Hoà ng Thà nh trải qua khá nhiửu thay đổi, nhưng trung tâm của Hoà ng Thà nh, đặc biệt là vị trí, qui mô của Cấm Thà nh (còn gọi là Cung thà nh) thì gần như không thay đổi, chỉ có kiến trúc bên trong thì dĩ nhiên qua nhiửu lần xây dựng, tu sửa. Chính đặc điểm nà y giải thích tại sao trên khu di tích 18 Hoà ng Diệu, các lớp di tích kiến trúc và di vật chồng lên nhau qua các thời kử³ lịch sử.
Gần đây, việc phát hiện di vật khảo cổ của đọan thà nh cổ trong khi thi công đường Hoà ng Hoa Thám, một lần nữa GS Phan Huy Lê cùng các nhà khảo cổ học, sử học lên tiếng đưa ra giải pháp để có thể nghiên cứu di tích thu thập di vật thời Lý, Trần, Lê... Theo tư liệu lịch sử, đây là đoạn thà nh cổ còn lại duy nhất phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử nhiửu mặt của Thăng Long-Hà Nội.
* Một trong Tứ trụ của sử học hiện đại Việt Nam
Cùng với hoạt động nghiên cứu, Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, Nhà Sử học Phan Huy Lê còn dà nh tâm huyết nghử nghiệp của mình truyửn lại cho các thế hệ sinh viên. à”ng một trong Tứ trụ của nửn sử học hiện đại Việt Nam như cách vinh danh của nhiửu thế hệ học trò: Lâm “ Lê “ Tấn “ Vượng (các giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng). Những ai đã từng được nghe ông giảng thì không chỉ tâm phục khẩu phục™™vử kiến thức, tri thức sâu rộng, khúc triết, giọng nói trầm ấm, biểu cảm, mà còn thấy ở ông là một phong cách, một thế ứng xử đầy minh triết, một nhân cách khoa học toà n vẹn.
à”ng thường gắn kết những bà i giảng của mình với các triết lý nhân văn, thể hiện tinh thần là m việc hăng say, hết mình cho sự thật và niửm đam mê. Những thế hệ học trò khoa Lịch Sử Đại học KHXHNV “ ĐHQG Hà Nội được ông và đồng nghiệp đà o tạo nay có nhiửu người giữ những trọng trách trong các trường Đại học, các Viện Nghiên cứu, những cơ quan quản lý nhà nước ở Hà Nội và nhiửu nơi khác. à”ng được Nhà nước phong hà m giáo sư đợt đầu tiên (năm 1980); danh hiệu Nhà giáo Nhân dân (năm 1994); giải thưởng nhà nước (năm 2000).
à”ng là người Việt Nam đầu tiên được Nhật Bản trao tặng Giải thưởng quốc tế văn hóa châu à Fukuoka (năm 1996). Và năm 2002, ông được Chính phủ Pháp trao tặng Huân chương Cà nh cọ Hà n lâm.
Quê hương của GS Phan Huy Lê là vùng Núi Hồng Sông Lam nhưng trong tôi, tri thức và nhân cách của Thầy mãi là tượng trưng cho Hà Nội ngà n năm văn hiến.