Đi lang thang trên phố, mùa nà o cũng gặp những mùi hương, nói như Nguyễn Du: Hương gây mùi nhớ.... Ta nhớ ai đây? Một thời thơ ấu, một thuở thanh niên, một mùa hè rực rỡ, một mùa thu hiu hắt, hay mùa đông tơi tả hồn lá và ng bay muộn...?
Có khi ta nhìn thấy những là n hương rất rõ, nhưng có khi lại rất mơ hồ, hoà n toà n không rõ rệt mà chỉ là nó thấm và o da ta qua sợi tóc, sợi lông mi, sợi lông tơ rung động theo nhịp thở như nỗi dại khử chợt gặp rồi tan biến lúc nà o chính ta không biết...
Qua một thôn xa, có khi ta bồi hồi gặp một lần mùa xuân hiện ra trong hương hoa bưởi... Còn Hà Nội, cây xanh nhiửu nhưng hương hơi ít.
Mùa xuân hoa đà o, hoa gạo, hoa vông, mùa hè hoa phượng, hoa và ng anh, hoa bằng lăng... đửu hữu sắc vô hương. May ra đôi mùa thu mới có bông hoà ng lan, ngọc lan, chiếc móng rồng, chùm dạ lan hương... vèo bay trong sương lan toả. Mùa đông thì may mắn có loại hoa tình ái: Hoa Sữa. Còn đẹp vừa tưng bừng vừa hiu hắt, ít ai bắt gặp là hoa lộc vừng. Nó là từng sợi pháo dây treo lơ lửng trên cà nh soi và o bóng nước, nhưng phải bử nhiửu công tìm nó thì nó mới thoáng thơm lúc chiửu tà sương mửng...
Hoa xuống phố
Có lẽ thà nh phố nhiửu loại hương bay ra từ bà n tay con người hơn là do hồn tạo tác của thiên nhiên.
Cô bún chả ơi, quạt gì mà là m xao xuyến cả thần khẩu khách qua đường như thế, khói lam xanh hay lời mời gọi của món cay chua mặn chát dẻo mửm thơm ngọt cùng xanh trắng đử và ng hồng tím...?
Buổi sáng chợt tình cử ta đi qua một con ngõ hun hút nà o kia, mùi bánh mì mới ra lò là m thức dậy cả quãng đời niên thiếu vừa đi vừa gặm chiếc bánh nóng hổi giòn tan, kẹp miếng chả trâu hay ít pa tê, mà có khi cũng chỉ là một mình miếng bánh đơn sơ chay tịnh... Ta còn tiếc cả cái vụn bánh rơi ra, phải để nó và o lòng bà n tay khum khum rồi hất nó và o trong miệng vì nó ngon lạ ngon lùng, cũng thơm lùng thơm lạ.
Lớn lên chút xíu, nhà ai rang cà phê cho khói bay như chiếc câu liêm câu chặt lấy bước chân ta? Còn hương cà phê, từ cà phê phin bằng nhôm, cà phê phin bé đến cà phê pha nồi (như mậu dịch quốc doanh một thuở) đến cà phê túi, gọi là cà phê bít tất như cà phê đầu đường Phùng Hưng, cạnh nhà máy nước đá... ta nghe thấy ngọt đắng trên đầu lườ¡i, nghe thấy râm ran con rôm bò trong lưng vì chất cà phê ấy có thể xua đi mùa đông đường phố với ta là kẻ ít áo len quần dạ khăn nhung.
Nếu đi trong phố cổ, chỗ ấy đông người ngồi đứng, ta chưa đến nơi nhưng mắt ta đến trước và có khi là chiếc mũi ta còn đến trước nữa. Đó là hà ng phở với mùi nước dùng nghi ngút vang ra dọc con phố dà i cũ kử¹. Là hương của quế chi, thảo quả, hà nh nướng, gừng cay, của mùi mỡ bò, mùi nước mắm ngon... ta chưa nghe thấy tiếng húp xụp xoạp, tiếng xuýt xoa, tiếng gau gáu, tiếng ừng ực... mà mới chỉ phập phồng cánh mũi đã thấy no lòng, mà cũng là thấy cồn cà o cái đói và sự thèm thuồng khao khát vị ngon ngọt nồng đượm thơm tho như thế.
Nhưng có lẽ tuần lễ cuối mùa đông, mọi việc chuẩn bị cho Tết đã hòm hòm, ta có chút thì giử còn lại, đi tìm cảm giác trong không gian giao mùa chuyển tiếp.
Có kêu trời lên được không khi bao nhiêu mùi vị đang là m cho khuôn mặt phố phường đổi khác?
Đó là mùi lá dong lá chuối đang chín trong nồi luộc giò lụa, hay bánh chưng. Mùi nà y không lẫn với bất cứ mùi gì trên dương thế. Nó hoà n toà n là nó và cũng khó mà viết ra thà nh chữ cho người khác biết. Nó là hiện tại mà cũng là kỷ niệm đời người. Nó là ngà y Tết mà cũng là những gia đình xa hút phía quê hương khi cha mẹ ta gói bánh, giã giò cho kịp Tết một thuở nà o...
Hình như nó có quyện với mùi quả bồ kết đang nướng trên than đử... Rồi sẽ hiện ra những mảnh bồ kết đen đen nổi chìm trong chậu thau đồng có chất nước hung hung như nước vối loãng và lửng lơ chiếc hạt chìm xuống đáy. Ai là người sẽ cúi xuống, nghiêng nghiêng mái tóc dà i như suối, với cánh tay ngà lên đỡ tóc rồi múc nước bồ kết thơm thơm gội lên đó như trận mưa xuân nhử lướt trên đầu núi?...
Đêm ấy giao thừa, đêm ấy hội xuân, ai hít hà no nê hương tóc? Nó là bồ kết hay lá chanh, lá sả, lá bưởi, hương nhu hoặc bông hoa nhà i, hoa sói? Ta mê đi rồi, sao biết được.
Ngà y nay có quá nhiửu mử¹ phẩm, ai có nhiửu tiửn cứ mua cứ xức, không ai ngăn cản... Nhưng có một loà i hương cố hữu ngà n năm mà chắc cụ ta, bà ta, mẹ ta đến lớp chị ta không bao giử thiếu khi Tết đến. Ngay trong thà nh phố đây, phố nà o nhỉ, nhà ai đang đun đang nấu nồi nước lá mùi già thơm đến mê tơi suốt cuối mùa đông. Vùng Kinh Bắc có hà ng ngà n mẫu rau mùi ăn lá, nhưng cuối năm nó thà nh mùi già để lấy quả là m giống mà cũng để lấy thân cây là m vị thuốc và hấp dẫn nhất là đun nước gội đầu rửa mặt sáng mùa xuân... Sáng mùng Một, trời rét, được ngâm hai bà n tay và o chậu nước nóng già , được mẹ hay chị đưa chiếc khăn bông mửm mại, nóng ran, thơm nức lên mặt ta... hương nước mùi già ấy dù bao chục năm cũng không bao giử nhòa xóa vì nó thấm ngay lập tức và o máu thịt đời người, người con nước Việt.
Lá mùi già
Giữa thà nh phố ai đang đun nó thế, người ơi! Hình như thứ rau già nà y là bản thân thời gian, là chính mùa xuân đang đến, là mẹ ta, chị ta đã khuất cuối phương trời, bây giử đang hiển hiện nơi góc phố, nơi có chiếc chậu thau đồng hay chiếc vại góc tường, bức tường không vôi xanh vôi và ng vôi đử mà chỉ là một cà nh đà o vừa mua vử, còn dựng góc tường chưa kịp đốt gốc và cắm và o bình...
Ta chưa hết bà ng hoà ng thì đã gặp mùi hương ướp đượm toà n thân. Nồi chè kho chắc còn đợi nó, đỗ đang đãi, đường đã thắng, Tò ho đấy, còn có tên là Thảo quả đấy. Nó chỉ là chiếc quả khô, nướng cháy trên than, lấy nhân giã nhử, điểm một chút thì hạt đỗ xanh đã biến hình, thà nh thần tiên kử³ ảo: Nồi chè kho. Một nhà nướng nó thì cả phố cũng thơm, nó còn hơn cả quả quýt đầu mùa thuở học trò ăn vụng trong lớp, không giấu được ai...
Món chè kho đã bắt đầu hiếm. Những quả tò ho thì vẫn không hiếm. Người dân miửn núi nhử tò ho mà tậu được xe máy. Nó có hương thơm đến nao lòng, đến thổn thức, đến si mê...Hình như là n hương ấy để ăn, để ngửi, để nấu, để xoa... để ta thà nh một loà i mây vừa lơ lửng không trung vừa xác thịt nơi hạ giới... Thảo quả chính là Tết, ngà y thường ngoà i ông hà ng phở dùng tí chút thì chẳng ai nướng quả tò ho là m món. Tết mới là thời gian của nó, là cơ hội của nó và cũng là cơ hội cho ta gặp nó để thức lên những mùa dĩ vãng diệu huyửn.
Ngà y cuối năm, cũng là giử cuối năm, những ai đã kịp ngồi trong nhà ngắm chồng bánh chưng luộc xong, ngắm giò thủy tiên đà ng hà m tiếu... và ai đang trên đường tự tìm ra niửm tết của riêng mình? Đường phố có bao nhiêu mà u sắc, có khi chỉ có những mùi hương mới là m cho ai đó mơ mà ng vử mùa xuân vừa thực tại vừa mông lung như có một chút Hồ Xuân Hương tiếc thương bốn chiếc cọc đu đã nhổ đi mất, một chút Xuân Diệu cần vội và ng kẻo lỡ mùa xuân, một chút Vũ Đình Liên hửi Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giử?, một chút bà Huyện Thanh Quan biết lấy ai mà nói chuyện ngọt bùi ẩm lạnh, một chút Tú Xương nghe vẳng tiếng gọi đò... và một chút mùng một mùng hai Tết của năm nảo năm nà o được hít hà hương thảo quả, mùi nước lá mùi già , ngắm ngọn lửa xèo xèo nước luộc bánh chưng trà o ra...
Thà nh phố đang hiện đại, những gì đang âm vang, những gì đang chìm lắng... Ai tìm ai biết chăng đây?