(NHN) Trên các phương tiện thông tin đại chúng gần đây có đưa tin một số trường hợp người bệnh bị tử vong ngay sau khi tiêm kháng sinh (KS). Trên một số báo còn có những bà i viết của người không có chuyên môn vử y tế nên có những nhận định chưa chính xác hoặc nhầm lẫn giữa các loại thuốc KS nên có thể là m cho bạn đọc bối rối vì thông tin không đầy đủ. Có báo còn nhầm lẫn giữa hai loại thuốc KS là cephotaxim và ceftriaxon.
Tiêm thuốc KS phải đử phòng sốc phản vệ (SPV)
Trước hết phải nhắc lại rằng thuốc là con dao hai lườ¡i, bên cạnh những lợi ích để phòng ngừa và điửu trị bệnh, thuốc cũng có thể gây ra những phản ứng bất lợi, những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí gây tử vong cho người dùng thuốc. Loại thuốc nà o cũng có thể gây ra những tác hại như vậy, nhưng riêng thuốc KS thì mức độ nguy hiểm lại cà ng cao. Đã có nhiửu trường hợp bệnh nhân tử vong ngay sau khi tiêm thuốc KS mặc dù nhân viên y tế đã tuân thủ nghiêm chỉnh quy tắc điửu trị khi dùng thuốc. Đó là những ca SPV, một dạng dị ứng thuốc nghiêm trọng và đặc biệt nguy hiểm, nhiửu khi là bất khả kháng do cơ địa dị ứng của người được dùng thuốc. Nguy hiểm hơn, SPV có thể xảy ra ở liửu dùng rất nhử (tức là SPV có thể xảy ra ngay khi thử test), không có dấu hiệu báo trước và mọi phương tiện cấp cứu sau khi đã đưa thuốc và o người đửu không cứu được bệnh nhân. Đó là rủi ro không ai mong muốn mà người dùng thuốc cần biết để chia sẻ với ngà nh y tế nếu có phản ứng có hại nguy hiểm xảy ra trong quá trình dùng thuốc. Tại nhiửu địa phương, dị ứng thuốc chiếm tỷ lệ hơn 8,5% dân số, trong đó nguy hiểm nhất là SPV, chiếm khoảng 10% trong số các ca dị ứng thuốc. Trong số người bị SPV, khoảng 10% tử vong. Trong ngà nh y, SPV được coi là một tai biến kinh hoà ng, một dạng dị ứng cấp tính với những biểu hiện rất rầm rộ: người bệnh choáng váng, nổi mà y đay, huyết áp tụt, tím tái, vã mồ hôi, khó thở, mất ý thức...
Nhân viên y tế truyửn dịch cho trẻ bị sốc phản vệ. |
Chỉ tiêm thuốc KS khi thật sự cần thiết
Tiêm thuốc KS có những ưu điểm là thuốc được hấp thu trực tiếp và trọn vẹn và o máu nên có tác dụng nhanh và hiệu quả cao, đồng thời thuốc không qua hệ tiêu hóa nên không bị dịch tiêu hóa hoặc gan chuyển hóa. Tiêm truyửn tĩnh mạch dung dịch thuốc KS cho phép thuốc nhanh chóng đến ổ nhiễm khuẩn để hoạt chất phát huy tác dụng giúp tăng hiệu quả chữa bệnh. Tuy vậy, khi tiêm thuốc KS cũng cần phải lưu ý một số nhược điểm như phải có dụng cụ thích hợp (ống tiêm, kim tiêm...). Truyửn dịch KS thì phải có bộ dây truyửn và phải tuyệt đối vô trùng, nếu không sẽ có nguy cơ bị nhiễm trùng (như áp-xe, nhiễm virut viêm gan B, C). Người tiêm thuốc phải là nhân viên y tế đã qua đà o tạo biết các kử¹ thuật tiêm đúng cách. Tuy nhiên, thuốc tiêm KS dễ gây phản ứng toà n thân hay tại chỗ khi cơ thể không dung nạp thuốc. Khi tiêm các dung dịch thuốc KS có khi gây SPV trầm trọng, vì vậy chỉ dùng thuốc tiêm KS thay cho thuốc uống trong trường hợp cấp cứu, bệnh nhiễm trùng nặng, người bệnh không thể hợp tác uống thuốc hoặc khi dược chất cần sử dụng không có dạng thuốc uống. Khi phải dùng dạng thuốc KS tiêm, cần có sự cân nhắc bởi nếu có tác dụng không mong muốn tiêm thuốc sẽ nguy hiểm hơn uống thuốc và nguy cơ SPV có thể xảy ra ngay ở liửu rất nhử hoặc xảy ra chậm, tức là có khi đến mũi tiêm thứ hai, thứ ba phản ứng SPV mới xảy ra.
Cách nà o để bệnh nhân biết mình bị phản ứng thuốc?
Phản ứng dị ứng thuốc ngay tức thì, nặng nhất là phản ứng phản vệ mà biểu hiện lâm sà ng thường gặp là SPV. Nhẹ hơn thì có thể phản ứng trên da: ngứa, nổi mẩn đử da (có thể khu trú tại chỗ hoặc lan ra toà n thân). Phản ứng chậm hơn ở ngoà i da sau và i giử đến và i ngà y như hội chứng Stevens - Johnson, hội chứng Lyell - bong da, tróc niêm mạc toà n thân, bệnh nhân cũng có thể tử vong sau đó vì nhiễm trùng da và nhiễm trùng huyết. Sau khi dùng thuốc, nếu bị các triệu chứng kể trên thì nên đến bệnh viện ngay và thông báo cho bác sĩ biết thuốc mình đã sử dụng thật đầy đủ. Có nhiửu triệu chứng mà người bệnh không thể nà o biết, như uống thuốc xong bị rối loạn tiửn đình, suy thận, mất tế bà o máu... thì phải theo dõi nhiửu ngà y sau dùng thuốc mới nhận biết được bởi những cán bộ có chuyên môn.
Cần lưu ý các biện pháp dân gian như uống nước đậu xanh, uống nước chanh, lòng trắng trứng... đửu không có cơ sở khoa học và không cấp cứu được dị ứng thuốc. Khi đi khám, bệnh nhân nên thông báo với bác sĩ thuốc mình đã bị dị ứng hay phản ứng trước đó (nếu biết). Nên báo cho thầy thuốc tình trạng cơ thể trước đó có dị ứng với thức ăn hay chất lạ như bụi phấn, hoá chất... để có cơ sở đử phòng và hạn chế sử dụng những loại thuốc có nguy cơ cao gây dị ứng hoặc SPV. Không nên lạm dụng thuốc và đặc biệt không tự mua thuốc để điửu trị, nhất là KS và một số thuốc chuyên khoa đặc trị, kể cả thuốc nhử mắt, bôi ngoà i da có chứa KS cũng phải tuân theo chỉ định của thầy thuốc.