Nguyễn Du với Thăng Long

Trần Văn Mỹ| 17/02/2021 15:11

Nguyễn Du với Thăng Long
Tranh sơn dầu “Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc Việt Nam” 
của họa sĩ Lê Anh Tuấn

Tổ tiên Nguyễn Du người làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Họ này có Nguyễn Thiến đỗ Trạng nguyên năm 1532 dưới thời Mạc Đăng Doanh, sau theo giúp nhà Lê làm đến Thượng thư bộ Lại. Nguyễn Thiến sinh hai con trai là Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn, cả hai đều được phong tước Công. Đây là tước cao nhất trong 5 tước hầu. Nhưng khi Nguyễn Thiến mất, cả hai đều không theo nhà Lê nữa mà trở về với nhà Mạc. Đến khi nhà Mạc mất, cả hai lại muốn trở về với nhà Lê. Việc bị lộ, cả họ bị tội tru di, chỉ có mình Nhiệm, con Nguyễn Miễn trốn được chạy vào làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Trải hai thế kỷ, họ Nguyễn ở Tiên Điền, sinh nhiều người tài giỏi, làm quan to và đặc biệt đều giỏi thơ văn. Ca dao ở vùng này có câu: “Bao giờ Ngàn Hống hết cây/ Sông Lam hết nước họ này hết quan”.

Đầu thế kỷ XVIII, họ này sinh Nguyễn Nghiễm, đỗ Hoàng giáp khoa Tân Hợi 1731. Nguyễn Nghiễm làm quan triều Lê, được ban tước Xuân quận công, có dinh thự ở phường Bích Câu, cạnh Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Năm 1765, Nguyễn Nghiễm sinh Nguyễn Du tại đây. 

Năm 1775, thân phụ mất và ba năm sau, thân mẫu mất (1778), Nguyễn Du ở với anh là Nguyễn Khản, giữ chức Nhập thị bồi tụng (1773), rồi Thượng thư bộ Lại, kiêm trấn thủ xứ Sơn Tây. Năm 18 tuổi (1783), Nguyễn Du thi đỗ tam trường. Ít lâu sau, ở kinh đô xảy loạn kiêu binh, việc học hành của ông đành lỡ dở.

Năm Kỷ Dậu 1789, Quang Trung đại phá quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, ông đi theo không kịp, lánh về quê vợ ở xã Hải An, Thái Bình. Đầu năm 1796, ông về Tiên Điền, kết thúc mười năm gió bụi. Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi, tháng 5 vua ngự giá ra Bắc, tới Nghệ An, ông ra đón và được phép theo xa giá ra Thăng Long. Tháng tám năm ấy, ông được bổ tri huyện Phù Dung (Hưng Yên), rồi thăng tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội). Năm Quý Hợi 1803, ông được cử lên Nam Quan nghênh tiếp sứ nhà Thanh. Năm Ất Sửu 1805, thăng Đông các học sĩ tước Du Đức hầu, vào Phú Xuân làm quan. Năm 1813, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ, rồi được cử đi sứ Trung Quốc lo việc tuế cống. Năm 50 tuổi, ông được đặc cách thăng Hữu tham tri bộ Lễ.

Năm 1820, vua Gia Long mất, vua Minh Mệnh lên nối ngôi, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong. Bấy giờ bệnh dịch tả hoành hành lan khắp các tỉnh Hà Tiên, Định Tường ra đến Bắc thành. Ngày 10 tháng 8 năm đó, ông cảm bệnh nặng rồi mất, lúc đó mới 56 tuổi.

Cả đời Nguyễn Du ôm nặng trong lòng mối cô trung. Trong ông có nhiều mối mâu thuẫn giằng xé. Sử triều Nguyễn chép rằng: “Du người Nghệ An, rộng học giỏi thơ, càng giỏi về quốc ngữ. Nhưng là người nhút nhát, đến khi ra mắt vua thì sợ sệt không dám nói gì”, “Đến khi ốm nặng không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ nói với ông là đã lạnh, ông nói “được” rồi mất, không trối lại một lời”.

Điểm qua mấy nét chính lai lịch cuộc đời Nguyễn Du để thấy cả đời ông chất chứa những buồn thương. Những tâm sự u uẩn đó được ông thể hiện rất rõ trong Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh (còn gọi là Văn chiêu hồn).

Đối với Thăng Long, đây là đất phát tích dòng họ của Nguyễn Du, đồng thời Thăng Long là nơi sinh ra, và cũng là nơi ông có nhiều gắn bó lúc thiếu thời. Mỗi lần đi sứ phương Bắc hoặc lên ải Nam Quan, ông đều nghỉ lại ở Thăng Long. Nhìn cảnh lầu gác, dinh thự vàng son lộng lẫy một thời, sau một cuộc bể dâu, nay đã trở thành đường cái quan, ông rớt nước mắt mà than rằng: “Ngẫm xưa nay, chẳng có triều đại nào tồn tại được ngàn năm”.

Tâm sự và nỗi buồn sâu lắng ấy được Nguyễn Du thể hiện qua bài thơ “Thăng Long”:

Lô Tản xưa rày vẫn núi sông
Bạc đầu còn được thấy Thăng Long
Ngàn năm dinh lớn san đường cái
Một mảng thành nay xóa cố cung
Người đẹp từng quen giờ ẵm cháu
Bạn chơi thời nhỏ thảy lên ông
Một đêm vương vấn khổ không ngủ
Tiếng sáo vi vu ánh nguyệt lồng
(Lô là tên gọi đoạn sông Nhị Hà chảy qua Hà Nội; Tản chỉ Tản Viên là núi Chúa, núi Cha trong tâm thức người Việt).

Một bài thơ khác, bài “Người gảy đàn cầm đất Long Thành”, Nguyễn Du làm trong khi đi sứ. Trong lời Tiểu dẫn, ông viết: “Hồi còn trẻ, tôi lên kinh đô thăm anh tôi, ở trọ gần Giám Hồ. Cạnh đó có các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con hát đẹp có đến gần chục người. Nàng nổi tiếng nhờ ngón đàn Nguyễn, nàng hát cũng hay và khéo nói khôi hài, mọi người say mê, đua nhau ban thưởng từng chén rượu lớn, tiền thưởng nhiều vô kể, tiền và lụa chồng đầy mặt đất. Lúc ấy tôi nấp trong bóng tối, không thấy rõ lắm. Sau được gặp ở nhà anh tôi. Nàng người thấp, má bầu, trán dô, mặt gãy, không đẹp lắm, nhưng nước da trắng trẻo, thân hình đẫy đà, khéo trang điểm, lông mày thanh. Má đánh phấn, áo màu hồng, quần lụa cánh trả, có vẻ phong nhã…”.

“Sau đó vài năm, tôi dời nhà về Nam, mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay, tôi phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, đi qua Long Thành. Các bạn mở tiệc đón tôi ở dinh Tuyên phủ, có gọi tất cả vài chục nữ nhạc, tôi đều không biết mặt biết tên. Chị em thay nhau múa hát rồi nghe một khúc đàn Nguyễn trong trẻo nổi lên, khác hẳn những khúc thường nghe, tôi lấy làm lạ, nhìn người gảy đàn thì thấy một chị gầy gò, vẻ tiều tụy, sắc mặt đen sạm, xấu như quỷ, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi im ở cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dáng thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như đã từng quen biết, nên động lòng thương. Tiệc xong, hỏi thì chính là người trước kia đã gặp.

Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế. Tôi bồi hồi không yên, ngửng lên cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay. Người ta trong cõi trăm năm, những sự vinh nhục buồn vui thật không thể lường được. Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương vô hạn nên làm bài ca sau để ghi lại mối cảm hứng”.

Mối cảm thương vô hạn đó đã được Nguyễn Du thể hiện thật tài tình trong các tác phẩm của mình. Đó chính là lòng thương đời, thương người rộng mênh mông, sẵn sàng bệnh vực những thân phận thấp kém trong xã hội. Điều đó đã làm rung động lòng người. Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc đã đánh giá tác phẩm của Nguyễn Du hay nhất thế giới và vượt qua mọi thời đại. Ngày 25/10/2013, tổ chức này đã ra Nghị quyết 37C/15 vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân Văn hóa thế giới.
(0) Bình luận
  • Cây tiêu huyền & mảnh gỗ
    Truyện ngắn của Ali Jafaroglu (Azerbaijan)
  • Về bến nước xưa
    Mẹ thường hay nhắc về cái bến sông nhỏ nằm bên dòng sông chảy thẳng. Tôi hỏi mẹ nơi ấy có gì vui để mẹ cứ nhắc nhớ suốt một đời, cho đến khi chúng tôi đã không còn sống trong cái xóm buồn tẻ xung quanh bao bọc bởi những cánh rừng thăm thẳm, sớm chiều chỉ nghe mỗi tiếng vượn hú, chim kêu. Mẹ tôi cười hiền khô.
  • Vết thương ngày cũ
    Cô nhận được tin nhắn của Thuận vào sau ngày họp lớp không lâu. Lúc đó cô không biết đó là số của Thuận vì đi họp lớp, cô không hề lưu số của thành viên lớp cũ nào cả. Tin nhắn viết: “Hôm nay cậu có vui không?”
  • Hoàng tử & Công chúa Ngủ
    Công chúa Ngủ đang ngon giấc trên một chiếc giường đầy hoa, có nắp đậy bằng pha lê. Nàng xinh đẹp, phúc hậu và thông minh, tuy vậy cái sắc đẹp, cái phúc hậu và cái thông minh đang ngủ cùng nàng. Nàng đã tồn tại, song nàng ngủ li bì, cho nên coi như không có nàng. Chỉ có sắc đẹp của nàng hiện lên qua nắp pha lê trong suốt, nhưng đó không phải là nét ưu trong tính cách của nàng.
  • Bóng làng nơi đáy ao
    Ở làng Chiện này, cách đây năm mươi cái tết, người đàn ông nào vào tuổi ngũ tuần, thì được làng tặng con cá chép ao Sen. Ao Sen là ao chung của cả làng, có ý nghĩa quan trọng với cả cộng đồng. Ông Nền giờ đã ngoài sáu mươi, sau khi rời quân ngũ về đã làm liền hai khóa chủ tịch xã. Còn hơn nửa năm nữa, ông chỉ mong kết thúc nhiệm kì để được nghỉ ngơi.
  • Đào bích ngược ngàn
    Đã là ba mươi tháng Chạp. Cây đào phai già bên con dốc từ trạm y tế xã Mường Va lên Trạm biên phòng 19 đã khoe những bông đầu tiên. Không ai biết cây đào đã bao nhiêu tuổi. Chỉ biết rằng trên cái gốc vâm váp sần sùi của cây là vết tích của những cành to bằng cánh tay người đã bị gãy do thời gian, là mấy cành nhỏ còn vết dao chặt do cái thú chơi cành cắm lọ của mấy người miền xuôi năm trước và cả cái cành lả thế hoành duy nhất và đẹp nhất vào cuối năm ngoái.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • “HỘP NGHỆ THUẬT” - Số 14: Giải mã ngôn ngữ gen Z: Sáng tạo hay lệch chuẩn?
    Thời gian gần đây cùng với mức độ phủ sóng của gen Z trên nhiều nền tảng mạng xã hội khác nhau, không khó để bắt gặp một loại ngôn ngữ đặc trưng riêng của thế hệ này.  Hà Nội với với vị thế là Thủ đô của cả nước; sự giao lưu và tiếp biến các trào lưu văn hoá diễn ra liên tục, ngôn ngữ gen Z cũng không nằm ngoài các trào lưu đó. Vì vậy, trong thời gian qua, việc định hình văn hoá giao tiếp, văn hoá ứng xử cho thế hệ thanh thiếu niên luôn được các cấp chính quyền và toàn xã hội đặc biệt quan tâm.
  • Nguyễn Tư Giản - Một tình yêu Hà Nội
    Nguyễn Tư Giản (1823 – 1890) vốn tên là Văn Phú, tự Tuân Thúc, bút hiệu Thạch Nông, Vân Lộc là người làng Du Nội (xưa thuộc phủ Từ Sơn, nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, TP Hà Nội). Ông là cháu nội của Nguyễn Án – một bậc danh nho, dòng dõi họ Nguyễn làng Vân Điềm nổi tiếng có nhiều ông Nghè, ông Cống bậc nhất ở xứ Đông Ngàn xưa; đồng tác giả cuốn “Thương tang ngẫu lục” viết về lịch sử, danh thắng, phong tục của đất Thăng Long – Hà Nội cuối đời Lê, đầu đời Nguyễn (viết chung với Phạm Đình Hổ).
  • Sự đằm thắm trong thơ Nguyễn Thị Hồng
    Sinh năm 1948 với hơn 50 năm sáng tác, nhà thơ Nguyễn Thị Hồng vừa ra mắt bạn đọc tập sách mới nhất là “Thơ tuyển Nguyễn Thị Hồng” vào đầu năm 2023. Trước đó, các tập thơ của chị đã được xuất bản như “Em ra đi”, “Gọi thu”, “Biển đêm”, “Những bông hoa thiên sứ”, “Cuộc bàn giao vĩnh cửu - hồn khèn”. Khi cầm cuốn sách trên tay, tôi đã có dự cảm không sai về một không khí thơ đằm thắm, trong lành ở hơn trăm bài thơ với gần 50 năm sáng tác.
  • Khám phá vẻ đẹp đỉnh núi Phượng Hoàng
    Mới đây, đỉnh núi Phượng Hoàng (Uông Bí) trở thành "cơn sốt" trên khắp các trang mạng xã hội. Nơi đây được biết đến với vẻ đẹp hoang sơ, phiêu lãng, đẹp tựa truyền thuyết.
  • Song Hye Kyo và Cha Eun Woo hội ngộ
    Sáng 8/6 (giờ Việt Nam) những hình ảnh đầu tiên của Song Hye Kyo tại sự kiện của thương hiệu Chaumet đã được "nhá hàng".
Đừng bỏ lỡ
Nguyễn Du với Thăng Long
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO