Chuyện ít biết về núi Tổ Ba Vì

HNM| 28/02/2021 23:25

Thời bao cấp, vào những ngày trời đẹp, đứng ở đường Thanh Niên có thể nhìn thấy núi Ba Vì. Thời kỳ đó, ở phía Tây của hồ Tây hầu như không có nhà cao tầng, không khí trong lành, không bị ô nhiễm nên không che tầm nhìn.

Chuyện ít biết về núi Tổ Ba Vì
Dưới chân núi Ba Vì. Ảnh: Quốc Ân

Núi Ba Vì nằm ở phía Tây Hà Nội, cao gần 1.300m. Ca dao xưa có câu: “Nhất cao là núi Ba Vì/ Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn”. Núi Tam Đảo cao hơn Ba Vì, vậy tại sao người xưa lại xếp Tam Đảo sau núi Ba Vì? Đó là vì dân gian quan niệm “Sơn bất tại cao, hữu thần tắc linh” (Núi thiêng không bởi cao mà thiêng vì có thần ở đó). Sách “Việt điện u linh” và “Lĩnh Nam chích quái” đã chép về truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh và núi Ba Vì là nơi thờ thánh Tản Viên (còn gọi là Sơn Tinh). Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh là sản phẩm tinh thần, thể hiện tâm thức Việt: Có chí, có tri, có thiện sẽ chiến thắng cái ác. Nhờ tâm thức này mà người Việt đã nhiều lần chiến thắng quân xâm lược phương Bắc. Trong tín ngưỡng dân gian, thánh Tản Viên được tôn là một trong “tứ bất tử” ở Việt Nam.

Khi Lý Công Uẩn dời đô ra xây thành trên nền cũ thành Đại La, khai sáng kinh thành Thăng Long, ngài rất tin phong thủy. Ba Vì và Tam Đảo che chắn ma quỷ và thế lực đen tối để Thăng Long là kinh đô muôn đời của Đại Việt. Trong “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn có đoạn nói về vượng khí ở vùng đất “rồng cuộn, hổ ngồi” rất mạnh. Thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã viết “Dư địa chí” và gọi Ba Vì là núi Tổ. Phú Thọ được gọi là đất Tổ vì xa xưa vùng này là nơi sinh sống của người Việt cổ, theo truyền thuyết còn có vua Hùng. Ba Vì chắc chắn không phải là ngọn núi xưa nhất nhưng có lẽ là nơi có đền thờ thánh sớm nhất. Theo “Đại Việt sử ký”, từ thời Lý, trên đỉnh Ba Vì đã có đền Thượng thờ thánh Tản Viên. Vì truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh sinh ra ở núi này mà truyền thuyết phản ánh tâm thức của người Việt. Có một sợi dây kết nối giữa núi Tổ và đất Tổ, đó là lễ hội ở Khê Thượng (nay thuộc huyện Ba Vì) vẫn được duy trì đến ngày nay. Vào đêm 30 Tết, dân làng Khê Thượng tổ chức nghi thức tiễn đưa thánh Tản Viên qua sông Đà về núi Nghĩa Lĩnh (Phú Thọ) để lễ tết bố vợ. Chiều mùng 2 Tết, dân làng chuẩn bị kiệu, cờ trống, hương án bên bờ sông Đà để bái vọng ngài ở núi Nghĩa Lĩnh và rước ngài về lại núi Ba Vì.

Có lẽ vì những bí ẩn tín ngưỡng trên núi Ba Vì nên năm 1902, Công sứ Pháp tại Sơn Tây là Theodore Muselier đã cùng một đội tùy tùng lên núi thám hiểm. Chuyến đi không chỉ nhằm khám phá mà hơn thế, Muselier muốn tìm đến nơi thờ vị thánh thiêng trong đời sống tâm linh của người Việt. Leo núi luồn rừng chẳng hề dễ dàng nhưng cuối cùng đoàn thám hiểm đã lên đến đỉnh núi. Trong hồi ký, Muselier đã viết về đền Thượng và sự kỳ ảo ở đỉnh Ba Vì: “... Họ đã huy động bao nhiêu người để xây dựng ngôi đền? Đường đi vô cùng khó khăn, rất hiểm trở, nguy hiểm, họ mất bao nhiêu thời gian để vận chuyển vật liệu? Ngoài sức người và sức ngựa còn có phương tiện nào tham gia vào việc này? Rồi tôi miên man nghĩ về vị thánh được thờ trong đền. Đang chìm vào suy nghĩ, bỗng nhiên tôi giật mình khi nhìn một quầng sương như một chiếc thuyền khổng lồ màu bạc lao thẳng đến. Cú va chạm nhẹ nhưng thảng thốt đầy cảm xúc. Vừa kịp thấy cái lạnh phả vào mặt, tôi đã thấy nắng rực rỡ bừng lên. Sương bị nắng bào mòn, mỏng như khói bao phủ lên cây rừng khiến màu xanh của đại ngàn bỗng chốc bị đổi màu giống như một tấm ảnh cũ vì thời gian. Vài phút sau cảnh vật bật nét trở lại, xanh ngắt...”. Sự thay đổi màu sắc chóng vánh ở đỉnh Ba Vì khiến Muselier và đoàn tùy tùng vô cùng thích thú. Trở về sau chuyến đi, Muselier đã cho trùng tu lại đền Thượng, làm đường lên đền. Đó là một con đường bằng mồ hôi và máu vì Muselier đã bắt tù nhân và dân địa phương lao động khổ sai.

Không chỉ là núi thiêng, từ cuối thế kỷ XIX, xung quanh chân núi Ba Vì từng có trang trại cà phê, cây canh ki na (một loài thảo dược có tác dụng bồi bổ sức khỏe) đầu tiên ở Việt Nam. Người có công đưa hai giống này từ Indonesia về ươm và nhân giống là nhà thực vật học người Pháp Benjamin Balansa (1825 - 1891). Chính Balansa đã nghiên cứu và thống kê trên núi Ba Vì có 5.600 loài cây và hiện ở Bảo tàng Paris vẫn còn lưu giữ gen của các giống cây. 

Trong sách “Thượng Kinh phong vật chí”, phần viết về xứ Đoài có câu: “Ba Vì không chỉ là núi thiêng mà khí ở đây rất vượng, tốt cho sức khỏe”. Đây cũng là lý do mà những năm 40 thế kỷ XX, thực dân Pháp đã cho xây khu nghỉ dưỡng ở trên núi.

(0) Bình luận
  • Bảo tàng Mỹ thuật ở giữa làng quê (huyện Ba Vì)
    Xứ Đoài là một vùng đất tối cổ - vùng địa văn hoá, địa thi hoạ - nơi mà con người có thể trải nghiệm đời mình trong hệ sinh thái tự nhiên của vùng đất, đi qua những truyền thuyết, cổ tích, để từ đó tạo nên tâm tính, giọng nói đặc trưng của con người xứ Đoài. Nắng và gió, núi và sông xứ Đoài đã gợi cảm hứng sáng tác cho một Tản Đà, một Quang Dũng và nhiều thi nhân, hoạ sĩ: từ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí đến Sĩ Tốt, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... và những thế hệ văn nghệ sĩ sau này, ở họ đều có những sáng tác xuất sắc về xứ Đoài.
  • Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày (huyện Phú Xuyên)
    Đi khắp các vùng miền của Tổ quốc, những cựu tù binh Phú Quốc đã sưu tầm kỷ vật, di vật, tranh ảnh có liên quan đến các nhà tù trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mà đồng đội và các ông đã trải qua. Hơn 20 năm kiếm tìm và góp nhặt, Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, do chính những người cựu tù năm xưa thành lập là những minh chứng chân thực về một thời oanh liệt và hào hùng của dân tộc.
  • Bảo tàng Quê hương phong trào chiếc gậy Trường Sơn (huyệnỨng Hoà)
    Hoà Xá là một làng quê nằm sát bờ tả sông Đáy, thuộc vùng ven chiêm trũng Khu Cháy. Nơi đây sớm có phong trào cách mạng ngay từ những năm 1930, là hậu phương trung thành của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hòa Xá được xem là quê hương của phong trào động viên thanh niên lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và câu chuyện huyền thoại “chiếc gậy Trường Sơn”.
  • Khu Cháy, Bảo tàng Khu Cháy - một địa chỉ đỏ về truyền thống đấu tranh cách mạng ở Ứng Hoà, Phú Xuyên
    “Khu Cháy” là thuật ngữ để nói về một khu du kích trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gồm 22 xã ở phía nam huyện Ứng Hoà và tây huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
  • Bảo tàng Tổng cục II (quận Hoàng Mai)
    Toạ lạc tại số 322 đường Lê Trọng Tấn, quận Hoàng Mai, Hà Nội trên khuôn viên rộng 3.500m2, gồm 2 tầng nhà và phần trưng bày ngoài trời, Bảo tàng Tổng cục II hiện lưu giữ 5.830 hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý hiếm gắn liền với cuộc đời hoạt động của nhiều chiến sĩ tình báo xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Với chức năng phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan học tập, giáo dục truyền thống, Bảo tàng Tổng cục II chính thức được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận nằm trong hệ thống các bảo tàng cấp 2 toàn quân.
  • Bảo tàng Binh chủng Thông tin (quận Ba Đình)
    Bảo tàng Binh chủng Thông tin thuộc loại hình bảo tàng lịch sử chuyên ngành quân sự, là thể chế văn hoá, có chức năng bảo quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử Binh chủng Thông tin liên lạc nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hoá của cán bộ, chiến sĩ trong Binh chủng và nhân dân, bạn bè quốc tế.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Chuyện ít biết về núi Tổ Ba Vì
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO