(NHN) Tết Trung Thu là cái Tết lớn thứ ba trong năm. Từ hình ảnh tròn của vầng trăng, con người thuở xưa đã ký thác tư tưởng của mình thà nh một biểu tượng: đó là chiếc bánh tròn mà người ta gọi nó là Nguyệt Bính. Ngắm trăng thu mà không ăn Nguyệt Bính sẽ là vô nghĩa.
Truyửn thống Đ‚n!
Người Việt ta vốn coi trọng truyửn thống "ăn," do đó thường dà nh một món ăn đặc thù cho mỗi dịp tết nhất hội hè. Theo cổ tục, người Việt trong quá khứ đã từng ăn bánh chưng, bánh dầy và o Tết Nguyên Đán; ăn bánh trôi, bánh chay và o Tết Hà n Thực; ăn rượu nếp, bánh tro, bánh ú và o Tết Đoan Ngọ; ăn heo quay cúng ngà y Rằm Tháng Bảy; ăn bánh dẻo, bánh nướng và o Tết Trung Thu; uống rượu cúc và o tiết Trùng Cửu. Ngà y nay, nhiửu cổ tục trên đã biến mất, tuy nhiên tập tục ăn bánh Trung Thu vẫn thịnh hà nh. Trước đây, nhiửu người tự hà o từng ăn bao nhiêu bánh mua từ những tiệm như Đông Hưng Viên, Đồng Khánh, Tân Tân, à Đông, nhưng mấy ai biết bánh Trung Thu có một sự tích lâu đời, mang nhiửu biến thái qua không gian và thời gian và nhất là mang nhiửu giai thoại lý thú.
Chẳng hạn như sau 1975, dù kinh tế chật vật, bánh Trung Thu không hử ế, và bánh Trung Thu vẫn đóng vai trò quà "hữu nghị" trong sự giao tế với giới chức cửa quyửn, cũng như ngà y trước, một viên chánh sự vụ Bộ Kinh Tế chỉ cần hứa ký một giấy phép cho nhập hà ng ngoại hóa từng được biêù một khay bánh Trung Thu tròn lớn, trên có con rồng có cặp mắt long lanh. Bà vợ mừng hụt hơi khi khám phá ra mắt rồng là một cặp hột xoà n 7, 8 li và bụng bánh chứa toà n và ng lá. Và cách đây ba năm, 50 công nhân của công ty thực phẩm Đồng Khánh (hay nhà hà ng Đồng Khánh cũ bị quốc doanh hoá) đã là m một cái bánh nướng khổng lồ kỷ lục cho 10,000 người ăn, nặng 735 kilô, đường kính 2 thước, cao 4 tấc.
Bánh Trung Thu ở ta và ở Trung Hoa
Ở VN từ xưa đến nay, bánh Trung Thu gồm hai hình thức: dẻo và nướng. Bánh dẻo là m bằng bột nếp trắng tinh nhồi với đường với nước hoa bưởi thơm lừng, đúc trong khuôn gỗ thường hình tròn, nhân là m bằng hột sen hay đậu xanh tán nhuyễn là chiếc bánh Trung Thu mang sắc thái VN hơn bánh nướng. Theo khẩu vị Hà Nội, bánh dẻo thường ngọt sắc hơn trong Nam. Đường kính của bánh thường rất lớn, có thể gần bằng chiếc mâm, để thể hiện hình dáng của vầng trăng thu lớn và trắng ngà trong biểu tượng của ý nghĩa "đoà n viên của gia đình" và nhất là tình yêu khắng khít vợ chồng: "Đêm khuya chung bóng trăng tròn sánh vai" (Kiửu). Bánh nướng Trung Thu hầu như vẫn trong bí quyết chế biến của dân Việt gốc Hoạ Hình dáng bánh nướng thường vuông hay tròn, thường đựng vừa khít bốn chiếc trong một cái hộp giấy vuông. Vử bánh là m bằng bột mì dậy men trộn với trứng gà và chút rượu, nhân thì có thể thuần tuý thường là m bằng đậu xanh, khoai môn, hay hột sen tán nhuyễn bao bọc lấy một hay hai tròng đử trứng vịt muối có mùi vani hay sầu riêng hoặc là nhân thập cẩm gồm đủ thứ như dăm bông, thịt quay, vi yến, dừa, hạt dưa, vử quít, ngó sen, bí đao.
Một điểm cần biết là những chiếc bánh nướng Trung Hoa mà chúng ta quen ăn ở VN hay mua tại những tiệm Hoa đại đa số ở hải ngoại chính là thoát thai từ kiểu thức và khẩu vị của vùng Quảng Đông bên Trung Hoa với những đặc điểm sau: vử bánh có vị ngọt, bánh đúc từ khuôn gỗ, còn vử nhân thì thập cẩm bao gồm đến 200 loại vô cùng phong phú. Vử mặt thưởng thức, bánh nướng mới ra lò ăn không ngon vì vử khô cứng mà phải chử ba ngà y sau, mỡ trong lớp nhân mới rịn ra là m bánh ăn mửm và thơm ngon. Mặc dù người ta quảng cáo bánh có thể bảo quản lâu đến một tháng nhưng điửu kiện khí hậu bình thường thì bánh chỉ nên ăn trong vòng hai tuần là tối đa nếu không thì ngửi khét dầu và là m sình bụng.
Nhìn qua lục địa Trung Quốc vốn là cái nôi khai sinh ra tục ăn bánh Trung Thu thì chúng ta thấy hình thức của chúng rất khác và thay đổi tùy theo tình trạng thổ sản, môi trường kinh tế và khẩu vị của từng địa phương như sau:
- Kiểu Tô Châu có một lịch sử gốc gác hơn 1,000 năm. Tại vùng nà y, đếm ra có hơn cả tá kiểu thức mà phổ thông nhất là chiếc bánh Kim-Thuỷ Mai-Quế Nguyệt Bính nặn bằng tay, vử bánh mửng chứa nhân bằng trái cây hay hạt tán nhuyễn. Bánh kiểu Tô Châu nổi danh với lớp vử là m bằng bột lên men thà nh từng lớp mửng tanh, ăn ngọt và béo.
- Kiểu Bắc Kinh có hai biến thể: một gọi là bánh "Ti-chiang" (đử tương) chịu ảnh hưởng Tô Châu, khác chăng là vử xốp nhẹ hơn là từng lớp mửng như bánh Tô Châu; hai là bánh "Fan Mao" (phiến mao) - nhẹ như lông, vử bánh nhẹ tơi mà u trắng, nhân bánh có vị dược liệu Sơn Tra. Bánh Bắc Kinh là bánh cung đình nên trang hoà ng tỉ mỉ rất ngon mắt và rất hấp dẫn gợi thèm.
- Kiểu Ninh Ba thoát thai từ kiểu Tô Châu và rất thịnh hà nh ở vùng Chiết Giang. Vử bánh đặc chắc chứa nhân dăm-bông hay hải tảo, điểm mùi gia vị cay và mặn. - Kiểu Vân-Nam được dân điạ phương gọi là "T'o," có vử là m bằng nhiửu thứ bột phối hợp của gạo, lúa mạch, v.v., có vị ngọt. - Kiểu Quảng Đông rất quen thuộc với dân VN vử những đặc điểm như đã nói trên.
- Kiểu Đà i Loan gọi là "Nguyệt quang bính" với nhân là m bằng khoai lang, ăn rất ngọt, mửm và không ớn. Trên thực tế, người Hoa quen dùng bốn tiếng sau để gọi bốn kiểu thức theo bốn địa phương chính là : Bình Tô Quảng Đà i (Bình hoặc Ping chỉ Bắc Bình hay Bắc Kinh), Tô (Su - tức Tô châu), Quảng (Kuang - tức Quảng Đông), Đà i (Tai chỉ Đà i Loan).
Ngoà i ra, người ta còn phân biệt bánh mặn (huân) dùng mỡ heo và bánh chay (tố trai) dùng dầu mè. Ở vùng Đông Nam à, chiếc bánh Trung thu cũng bị biến thái, ví dụ như bánh kiểu Mã Lai thì vử bọc bằng súc cu la và có nhân bằng đậu đử và dầu mè, hoặc có nhân hạt sen và nhiửu thứ lá thơm ngọt; bánh kiểu Hương cảng có nhân đậu nà nh thơm vị cam, hột sen trắng, đậu đen và lá trà .
Ở VN, tại Sà i Gòn và Chợ Lớn những nhà sản xuất như Kinh Đô, Đồng Khánh, ài Huê, Hỉ Lâm Môn còn chế những bánh nhân cùi dừa, ngó sen trộn sữa, sầu riêng, đậu xanh và những loại hạt giẻ. Có nhà lại chế thêm nhiửu rượu whisky, lại có nhà quảng cáo là n bánh Trung Thu "kiểu đai-ét" tbớt ngọt và không có cholesterol theo nhu cầu y tế thời thượng.